nhìn lại chặng đường dài mà mình đã qua
Nhìn lại chặng đường một năm hình thành Cộng đồng ASEAN 09/05/2018 2025 đã và đang được đưa vào triển khai. Lĩnh vực kinh tế, văn hóa-xã hội cũng đạt được nhiều kết quả cụ thể. Tầm nhìn ASEAN năm 2020 (Thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN không chính thức lần
Chorus:Từng chặng đường dài nhưng ta qua, tiếng ngồi một mình lại thấy nhớNgày ngày khía cạnh trời rạng ngời vươn cao lên từ bên trên mái nhàTừng chặng đường dài nhưng ta qua phần đông để lại kỉ niệm quý giáĐể lại một điều rằng càng đi xa ta càng thêm nhớ nhà
Video TikTok từ Nguyen Dang (@catbui9x): "nhìn lại 1 chặng đường mà mình đã đi qua.!". nhạc nền - YÊU ÂM NHẠC.
Cô giáo trẻ Cao Thị Phượng: 4 năm một chặng đường nhìn lại của chính mình. Khoẻ Đẹp Doanh Nhân LifeStyle. 20/01/2022. không quá dài, cũng không phải là ngắn cho một chặng đường nhìn lại suốt 4 năm qua của cô gái trẻ được gọi là 2 tiếng :"cô giáo" trân quý, đó là
Cùng nhìn lại chặng đường dài của nhóm Mây Trắng. Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Giai đoạn này nhóm cũng đã ra mắt ca khúc Ở nhà một mình (2010) và 2 ca khúc khác là Bụi của Nguyễn Hải Phong sáng tác và Only U do Nguyễn Hoàng Duy sáng tác. Hy vọng rằng những khán giả
Site De Rencontre Payant Et Serieux. [Ver 1]Ánh mắt nụ cười là ánh sáng soi bước anh đi mỗi ngàyNụ cười đôi môi kia đã khiến trái tim anh vững tinPhút giây càng bên nhau thì đắng cay ngày càng vơi điHạnh phúc sẽ mãi luôn giữ gìn.[Ver 2]Phút giây bình yên có em kề bên trong cuộc đời nàyVới anh thì không chẳng bao giờ quên đi nụ cườiĐắng cay ngày sau là điều anh đây chẳng màngBàng hoàng làm chi khi có nhau kề bên.Đắng cay ngày sau anh đây cũng chẳng màng bàng hoàng làm chi khi có nhau ở bên[ĐK 1]Anh đã từng gục ngã khi nỗi đau để lạiVà chính em đã dìu bước anh đi đến nơi con đườngVì em anh đã vững tin phía trước con đường mịt mờĐể rồi một ngày đôi bàn tay cùng dìu bước sẽ không còn là những ký ức đau thương đằng sauHạnh phúc cho nhau khi về sau yêu thương đừng để ai khổ đauAnh cám ơn vì một người đã mang đến cho nhauĐể khi nhìn lại chặng đường dài ta đã đi qua.[ĐK 2]Anh đã từng gục ngã em vẫn luôn bên cạnhVà chính em đã dìu bước anh đi đến nơi con đườngVì em anh đã vững tin với chặng đường dàiĐể rồi một ngày đôi bàn tay cùng nhau bước sẽ không còn là những ký ức đau thương đằng sauHạnh phúc cho nhau sẽ vơi đi niềm đau đã từngAnh cám ơn vì một người đã mang đến cho nhauĐể khi nhìn lại chặng đường dài ta đã đi qua.Cám ơn vì một người đã mang đến cho nhau để khi nhìn lại chặng đường dài ta đã qua
III Nhìn nhận lại diện mạo một nền văn học Nguyễn Văn Trung “… cần phải nhìn nhận lại dung mạo của một nền văn học phong phú và đa dạng hiện đang bị bụi thời đại phủ mờ nhưng lại thiếu những bàn tay chăm sóc đúng mực…” Xin mời cầm đọc, Tolle Lege [1] Trong thời kỳ gọi là mở cửa, bạn bè ở nước ngoài về đọc những biên khảo của tôi đã nhận xét nhiều lối nhìn, phân tách của anh lỗi thời rồi. Đúng thế, tôi bị cắt đứt với các trào lưu tư tưởng văn học phương Tây gần 20 năm. Nếu muốn những suy nghi của tôi thực sự hữu ích, tôi thấy phải ra nứơc ngoài học hỏi thêm làm những recyclages về thần học, triết học khoa học xã hội, văn học. Một lý do khác tôi đang theo đuổi một công trình nghiên cứu về miền Nam hiểu như một vùng đất mới trong quan hệ với vùng đất cũ qua các cuộc di dân trong lịch sử, nay lại có cuộc di dân khác, từ vùng đất mới trong nước ra vùng đất mới ngoài nước, Bắc Mỹ, mà tôi chưa biết gì hết, nên tôi cung rất muốn tìm hiểu đặc biệt cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ. Tôi đi Canada cuối năm 1993, và năm nào cũng đi Hoa Kỳ; sau một thời gian tìm hiểu, tôi bắt đầu thấy được khả năng tiềm lực của cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ về kinh tế chính trị. Nhưng về văn học, tôi không khỏi ngạc nhiên trước hiện tượng ở Cali một số các nhà văn “mặc áo thụng vái nhau”, phong cho nhau những chức vụ không hề có thời Việt Nam Cộng Hoà và nhất là phong cách chụp mũ tố Cộng, là điều những người cầm bút đứng đắn thời Việt Nam Cộng Hoà thường né tránh để khỏi bị dư luận chê cười. Tình hình bôi nhọ nhau, kích bác nhau ở mức độ cao trong cộng đồng ở Bắc Mỹ khiến tôi nhớ lại phận mình. Những gì tôi viết ra trước kia cũng đã gây ra những phản ứng đả kích, kết án loại trừ, từ phía những tổ chức giáo hội, truyền thông giáo dục xã hội. Mặc dầu vậy, tôi vẫn viết được nhiều trong thời kỳ 1955-1975. Tôi không thể không tự hỏi tại sao, và tôi thấy ngay giải đáp nhờ phong cách trí thức của những viên chức liên quan đến Bộ Thông tin-văn hóa-giáo dục. Vì có chính sách kiểm duyệt, tịch thu, vì lý do an ninh nên sách in ra phải kiểm duyệt, có giấy phép mới xuất bản được. Báo thì không phải kiểm duyệt, nhưng có thể bị tịch thu đua ra toà. Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến bày bán ngay cả trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán phản kháng mà không sợ nhà nước. Thời Việt Nam Cộng Hoà 1955-1975, những gì tôi viết thành sách đưa kiểm duyệt, có cuốn được phép xuất bản cuốn thì không, hoặc những bài báo sau gom lại thành sách đưa kiểm duyệt thường được phép, nhưng bỏ một số bài và có thể nói rõ những bài đó bị kiểm duyệt. Đây là tình trạng chung, do đó người thời sau muốn tìm hiểu những người cầm bút thời kỳ 1955-1975 cần lưu ý tìm đọc không phải chỉ sách được xuất bản công khai hợp pháp mà cả những sách không xuất bản được, nhưng vẫn có và còn đó trong các tạp chí và chính những bài đăng trong các tạp chí không được xuất bản thành sách, mới phản ánh trung thực tâm tư người viết về thời kỳ họ sống. Việt Nam Cộng Hoà có hai thời kỳ – gọi là Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hoà – do những yếu tố chính trị quy định và người viết cũng phân biệt thành hai giới Giới cầm bút trước 1955 tiếp tục sau 1955 qua cả hai thời kỳ Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hoà và có người tiếp tục viết ở hải ngoại mà không thay đổi bao nhiêu lối nhìn văn học, lập trường chính trị. Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới 10 tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sài Gòn như Vạn Hạnh, Minh Đức, Họ trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị, xã hội chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chiến tranh là thiết thân đối với họ vì bị động viên, đi quân dịch. Họ có tú tài nên nhập ngũ vào các trường đào tạo sĩ quan như Thủ Đức, Đà Lạt. Trừ Đỗ Long Vân, tốt nghiệp Đại học ở Pháp, dạy Đại học Huế đi trình diện ở trung tâm nhập ngu, không xuất trình bằng cấp, làm binh nhì. Do đó, họ có một lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn lối nhìn của đàn anh họ viết từ trước 1963. Tự họ ra những tạp chí trong khuôn khổ đại học như tờ Tình Thương của trường Y khoa Sàigòn mà Ngô Thế Vinh là một trong những cây bút đã được biết đến, hoặc tờ Trâu Bò của một nhóm sinh viên chính trị kinh doanh Đà Lạt. Họ tụ tập hát Tâm ca của Phạm Duy hay nhạc Trịnh Công Sơn, cùng nhau suy nghĩ về thân phận tuổi trẻ trong chiến tranh, tương tự thân phận trâu bò. Nhưng vì họ không phải trâu bò nên mới cảm nhận và viết ra những suy nghĩ của họ… Hoặc vượt ra khỏi khuôn khổ trường học, lập những nhóm như Việt, Cùng Khổ, Ý Thức, tạp chí Ngôn ngữ tiếng nói quyết liệt và thâm trầm nhất của lớp trẻ Việt Nam, Khai Phá đặc san văn nghệ của một nhóm cây bút trẻ miền Nam, Chim Việt giai phẩm văn nghệ của bút đoàn Quảng Trị, Động Đất tập san văn nghệ của một nhóm văn nghệ trẻ Tây Ninh, Văn Mới nguyệt san, chủ trương “một nền văn hoá gắn liền với hoàn cảnh một quốc gia nghèo đói, nội chiến, đang bị các thế lực đế quốc dùng làm thí điểm tranh chấp, tạo sinh lực đánh bật những ảnh hưởng của nền văn chương ngoại lai viễn mơ của các thế lực đế quốc trá hình“. Thường những tạp chí này chỉ sống được vài số rồi buộc phải ngưng vì hết khả năng đóng góp tài chánh, hoặc bị tịch thu dài dài, hoặc họ tham gia những tạp chí của đàn anh, hầu hết trong giới giáo sư Đại học đã viết trước 1963, nhưng sau 1963 đã chia sẻ số phận của những người trẻ là sinh viên của họ, bắt đầu là Hành Trình, rồi đến Đất Nước, Trình Bày, Đối Diện… Số báo Hành Trình cuối cùng Những tạp chí kể trên đã giữ vai trò chuyển tiếp thế hệ tạm gọi là thế hệ cầm bút sau 63, nhưng trong sinh hoạt nghiên cứu văn chương hải ngoại, không mấy ai nhắc đến họ. Thời ấy những sáng tác của những nhà văn trong các tập san này cũng ít được những nhà phê bình nghiên cứu để ý; nhưng bây giờ đọc lại thấy sống động và vẫn gây xúc động, vì những cảm xúc xuất phát từ thực tế, nhưng được trình bày với tư cách người nghệ si trí thức, phân biệt với con người cầm súng vì nghĩa vụ. Do đó thơ văn của họ không phải hiếu chiến, chủ chiến hay chủ hoà, phản chiến nhưng bày tỏ tính cách oan trái, bi thảm của thực tại, chan chứa tình người, tính nhân bản. Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu. Ngoài thơ văn của giới trẻ, còn có thơ văn của Nguyên Sa, một người đã cầm bút trước 1963, nhưng sau 1963, Nguyên Sa đã sát cánh với giới trẻ, trở thành cây bút chủ lực của Đất Nước, Trình Bày. Ông chia sẻ lối nhìn thời cuộc, quan điểm văn học nghệ thuật của họ, phê phán đàn anh trong đó có chính Nguyên Sa trước 1963. Tại sao? Vì Nguyên Sa cũng phải nhập ngũ như họ, hằng ngày đối diện với cái sống cái chết… Tuy sau khi mãn khóa, Nguyên Sa không phải ra trận, nhưng chỉ nguyên thân phận làm lính cũng đủ buộc nhà thơ thay đổi lối nhìn gần gũi với giới trẻ. Rất tiếc là khi Nguyên Sa qua đời, hầu hết các bài viết về Nguyên Sa đều không đả động đến khúc quặt quan trọng, rất có ý nghĩa giá trị trong sự nghiệp thơ văn của Nguyên Sa viết vào thời kỳ làm lính. Nếu bây giờ đọc lại thơ văn thời kỳ đó, sẽ thấy thơ văn Nguyên Sa không phải chỉ là Áo lụa Hà đông, Paris có gì lạ không em…, mà còn là Giã từ khóa đàn anh, Giã từ nền văn chương trú ẩn… Nhắc đến Nguyên Sa, tôi lại nhớ đến báo Đời ở California, số ngày 14-9-1985, ghi lại buổi họp mặt văn chương hết sức cảm động và đầy ý nghĩa, có tên là “30 năm văn chương Võ Phiến“. Buổi họp mặt nhằm xưng tụng Võ Phiến được coi là nhà văn chống Cộng số một của văn chương miền Nam Việt Nam. Trong buổi họp mặt đó, Nguyên Sa đã ghi nhận văn chương miền Nam thời VNCH gồm 4 khối lớn Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, nhóm Đất Nước của Nguyễn Văn Trung, nhóm Bách Khoa của Võ Phiến và nhóm thứ tư gồm những nhà văn nhà thơ ở ngoài ba nhóm kể trên. Phát biểu của Nguyên Sa trong khung cảnh một buổi họp mặt nhằm vinh danh một người, thực ra có tính cách xã giao chỉ nên “nghe qua rồi bỏ”, vì không một người cầm bút nào tham gia những sinh hoạt văn học từ 1955 đến 1975 lại nghĩ như vậy. Và trước hết, chính Nguyên Sa biết rõ hơn ai hết thời Nguyên Sa là cây bút chủ lực của Đất Nước, Trình Bày, tôi chỉ đứng tên, còn chủ động lo bài vở, quy tụ anh em, in ấn phát hành đều do Thế Nguyên và Diễm Châu. Nhưng trong Văn Học miền Nam – tổng quan [2], Võ Phiến đã nhắc lại nhận xét của Nguyên Sa, không những thừa nhận mà còn minh hoạ cho rõ hơn vai trò của mình trong Bách Khoa. Tôi đã liên lạc với Lê Ngộ Châu và Huỳnh Văn Lang – là người cũng vừa ra Hồi Ký, trong đó nói rõ về Bách Khoa. Trong thư viết cho tôi, Huỳnh Văn Lang khẳng định những ai là chủ động trong việc thành lập, những hội đoàn nào nâng đỡ Bách Khoa về mặt tài chánh, những ai lo quy tụ về bài vở. Trong thành phần nhân sự này, Võ Phiến không hề là chủ bút, ông viết trong Bách Khoa cũng như các cộng tác viên khác thôi. Một mặt khác, để tìm hiểu tâm lý độc giả của hai thời kỳ trước và sau 63, khách quan hơn cả, có lẽ ta nên dựa vào những tư liệu văn học của chính thời kỳ này Về thời kỳ trước 1963, tập san Hành Trình có làm một trưng cầu ý kiến bạn đọc về những tác phẩm văn học được nhiều người ưa thích nhất trong khoảng 10 năm 1954-1964 về 3 bộ môn tiểu thuyết, thơ, biên khảo. Trong số các phiếu gửi đi, toà soạn mới chỉ nhận được 40 ý kiến đáp ứng. Kết quả dựa vào cuộc trưng cầu đó tuy khiêm tốn, nhưng cũng cho thấy một ghi nhận nào đó về người đọc thời kỳ này. Bản đúc kết cho thấy Mai Thảo chỉ có một tác phẩm được kể tới, trong khi Doãn Quốc Sỹ gần gũi với Sáng Tạo có hai tác phẩm. Tác giả có nhiều tác phẩm được đọc và ưa thích là Nhật Tiến ở trong nhóm Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, Tự Lực Văn Đoàn… Về thơ, Nguyên Sa được nhiều người đọc ưa thích, Thanh Tâm Tuyền ít hơn. Nhưng được ít hay nhiều người đọc ưa thích chưa hẳn là tác phẩm được đánh giá đúng mức về tư tưởng và văn chương. Trong Văn học miền Nam – tổng quan, trang 216-217, Võ Phiến tán thành ghi nhận ý kiến của cô Thuỷ Tiên trên tạp chí Nhân Văn số 31, tháng 11-1984, xuất bản ở San José, về tờ Trình Bày và Đối Diện là “hai tạp chí đã có nhiều bài báo đóng góp rất lớn cho Cộng Sản trong việc thôn tính miền Nam”. Võ Phiến bình luận thêm “Đóng góp cho Cộng sản là làm giặc rồi còn gì… Những tờ Hành Trình, Đất Nước cũng đóng góp được đáng kể đấy… Nghiêm chỉnh trịnh trọng và ngây thơ, họ đóng góp đều đều chăm chỉ cho Cộng sản“. Nói như vậy, Võ Phiến vô tình hay cố ý chỉ tay tố cáo những người ở trong ban biên tập như Phạm Cao Dương, và những cây bút chủ chốt của Đất Nước, Trình Bày như Nguyên Sa, Thảo Trường hoặc những người cộng tác viết bài cho những tờ báo đó, như Thế Uyên, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Du Tử Lê, Luân Hoán, đã sang Mỹ sau 1975. Trong số này, nhiều người đã ở trại cải tạo lâu năm như Thảo Trường, sĩ quan an ninh quân đội. Khi tố cáo Hành Trình, Đất Nước là tiếp tay cho Cộng sản, có lẽ Võ Phiến không ngờ là chính mình cũng đang tự tố cáo đấy, vì Võ Phiến nhận đứng đầu nhóm Bách Khoa, trong đó có một cộng tác viên Vũ Hạnh ký nhiều bút hiệu khác nhau, có một Lữ Phương viết phê bình đều đều chăm chỉ trong Bách Khoa một thời gian. Tại sao Võ Phiến không tố cáo họ, không phải chỉ với tư cách “người trách nhiệm” của Bách Khoa, mà còn với tư cách viên chức bộ Thông Tin Chiêu Hồi? Vũ Hạnh thời Đệ Nhất Cộng Hoà đã bị an ninh bắt. Tổng hội giáo giới đứng bảo lãnh xin trả tự do cho Vũ Hạnh Nguyên Sa, Hồi ký, 1998, trang 223. Thời Đệ Nhị Cộng Hoà, Vũ Hạnh lại bị bắt. Thanh Lãng nhân danh Chủ tịch Văn bút – mà Võ Phiến là hội viên – can thiệp với công an xin trả tự do cho Vũ Hạnh, và Vũ Hạnh lại được tự do. Hành Trình bị tịch thu, tôi được mời lên bộ Thông Tin gặp Thứ Trưởng Đinh Trình Chính. Ông nói với tôi “Hành Trình bị tịch thu vì luật lệ như vậy, đề nghị từ nay đừng bày bán công khai trên sập báo. Khi in ra, xin nhớ gửi riêng cho tôi đọc vì tôi quý nó lắm.” Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh quân đoàn 3, kiêm tư lệnh Thuỷ quân lục chiến biên thư cho tôi “Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, không phải chỉ súng đạn là giải quyết được Cộng Sản trên đất nước này. Mong gặp anh nói truyện nhiều hơn. Thân.” trích thư đề ngày 17-6-1965, được chụp nguyên văn sẽ công bố trong “Hồ sơ về tạp chí Hành Trình“. Vài trường hợp kể trên về một số viên chức nhà nước dân sự và quân sự của VNCH trước 1975 có thái độ hiểu biết, không quy chụp bừa bãi, tôn trọng những suy nghĩ của người trí thức, đã có thể cho chúng tôi viết và nói công khai về thời cuộc. Sau ngày 30/4/1975, tự do phát biểu phê phán công khai đó không còn nữa mà chỉ trong khuôn khổ “nội bộ” mới có thể nói thẳng, nói thật với nhau. Ở miền Nam, thể chế Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa, nhưng dần dà những mặt tích cực của thể chế và phong cách con người được phục hồi, đề cao. Chẳng hạn sau 1975, bệnh viện Gia Định còn đông đảo nhân viên Sài Gòn cũ, cấp lãnh đạo thành phố thường đến để đề cao và tuyên dương là bệnh viện gương mẫu. Ở hải ngoại, đặc biệt là Bắc Mỹ người ta vẫn nêu danh nghĩa VNCH, chào cờ Quốc Gia. Nhưng những cái hay, cái đẹp của phong cách con người thể chế VNCH đã bị phủ nhận chà đạp, còn những cái xấu xa tiêu cực như tố cáo chụp mũ được sử dụng tràn lan, đưa đến tình trạng không ai dám nói dám viết thực những điều mình suy nghĩ. * Gần đây, Võ Phiến xuất bản 6 tập Văn Học Miền Nam. Đây là phần tài liệu bổ sung cho phần tổng quan trước kia. Trong những tuyển tập văn liệu này, tác giả đã gạt bỏ bộ môn biên khảo dịch thuật, báo chí, mà chỉ giới thiệu những người sáng tác văn, thơ, kịch; và trong số này ông cũng loại bỏ hầu hết những người sáng tác sau 1963. Đặc biệt Thế Nguyên, chủ bút Đất Nước, Trình Bày, Nghiên Cứu Văn Học. Thế Nguyên không còn nữa, nay tôi muốn nhắc lại một kỷ niệm sâu sắc với Thế Nguyên mà có lẽ Võ Phiến đã quên là giám đốc nhà xuất bản Trình Bày, Thế Nguyên đã đọc lời chào mừng những người làm Văn học Nghệ thuật trong buổi tiếp tân tại Đại lục lữ quán ngày 6-7-1969 nhân dịp nhà xuất bản Trình Bày phát hành cuốn sách thứ 50. Một tháng sau, Thế Nguyên vận động 110 người cầm bút ra kháng thư phản đối hành động đàn áp giới văn nghệ sĩ của Bộ Thông tin và Chiêu hồi đối với sự việc là Bộ này đối xử bất công với nhà văn Võ Phiến, lúc bấy giờ đang là công chức của bộ tại Sài Gòn 5-9-1969. Bản vận động chữ ký này được đăng trong Đất Nước số 12. Nhiều người cầm bút thuộc giới trẻ đã ký vào kháng thư này, trong đó có những cây bút giá trị nhưng tác phẩm của họ không được Võ Phiến chiếu cố giới thiệu trích dẫn. Chưa vội đánh giá về mặt tư tưởng, văn chương nghệ thuật, hãy chỉ ghi nhận số lượng thơ văn giới trẻ có đó, cùng góp mặt với những tên tuổi đã cầm bút từ trước 63, tạo thành bộ mặt của văn học miền Nam. Những người từ miền Bắc vào miền Nam sau 1975 trân trọng tìm đọc văn học miền Nam, đưa ra một nhận xét rất đúng phong phú và đa dạng. Có thể ghi nhận một đặc điểm chung của thơ văn giới trẻ viết sau 1963 chân thực. Họ viết thơ văn để khóc, tưởng nhớ bạn bè chết trận, mơ ước hoà bình, chứ không làm văn như trò chơi ngôn ngữ, làm dáng trí thức. Do đó bỏ quên thơ văn giới trẻ sau 1963 vì không biết đến, hay có biết nhưng vì một cách đánh giá nào đó mà bỏ qua, là một bất công đối với những người cầm bút trẻ thời đó, và là một thiệt hại cho văn học miền Nam thời VNCH, tạo cho người đọc bây giờ hình ảnh khuôn mặt về một nền văn học nghèo nàn, què cụt. Tại sao Võ Phiến bỏ qua không nhắc đến giới cầm bút sau 1963? Tại sao Nguyên Sa không nhắc lại ở thời kỳ Nguyên Sa là cây bút chủ lực của Đất Nước, Trình Bày, trong Hồi ký viết ở Hoa Kỳ? Tôi tìm thấy một giải thích vì những người chống Cộng ở hải ngoại sợ những người chống Cộng như những người Cộng sản ở trong nước sợ người Cộng sản. Tôi có một chứng từ của một đảng viên nay đã qua đời, để lại cho tôi tập hồi ký của ông, kể lại nhóm của ông vào Nam hoạt động tình báo khuynh đảo, bị bắt tù đày. Sau 1975 ngồi lại với nhau để kiểm điểm công tác, và không thể làm việc đó mà không đụng chạm đến phê phán lãnh đạo, và vì thế có nhiều người rét không dám đi họp, nên ông viết “Tôi nêu ra đây để muốn nói lên cái oai của ta như thế đấy tất cả anh em họp đều có quá trình chiến đấu cao, thành tích lớn, gần hết có huy hiệu 40 tuổi đảng, tất cả đều trải qua hai cuộc kháng chiến, đều là cựu tù chính trị, được Đảng tin cậy nhường đó mà sợ Đảng thế đó“. Tôi quen thân một Bác sĩ vừa được bầu làm Chủ tịch Cộng Đồng. Ông điện thoại cho tôi, nói “Từ nay tạm gác đi lại thăm nhau. Ông cũng nói với nhiều người khác xin đừng nhắc đến mối quen biết giữa tôi và ông để tôi dễ làm việc.” Dẫu vậy, tôi vẫn muốn phục hồi những người làm thơ văn, thuộc giới trẻ cầm bút sau 1963. Hiện nay có nhiều người thuộc thế hệ này ở nước ngoài, mong có được những thơ văn của mình đã đăng trong các tạp chí trước 1975 mà không mang đi được. Vào thư viện có nhiều tư liệu Việt Nam như Cornell cũng không tìm thấy. Có thể những bạn đó cũng muốn có thơ văn của bạn bè, đặc biệt những người đã vinh viễn nằm dưới lòng đất, để tưởng nhớ, giữ một chút kỷ niệm của bạn bè. Hãy cố tìm trong các tủ sách gia đình và thư việc quốc gia những mảng tài liệu văn học này, sẽ thấy lại hơi ấm văn chương của một thời. Rộng hơn một chút, con cháu chúng ta đang theo học tại các đại học, nhất là những nơi có dạy về môn văn học miền Nam. Một cách cụ thể, hồi cuối năm 2001, Nguyễn Xuân Hoàng mời tôi nói chuyện cho một lớp Văn học Việt Nam gần 20 người tổ chức ở đại học Berkeley. Tôi có hứa với các anh chị đó sẽ cung cấp cho họ tài liệu tương đối đầy đủ về khuôn mặt văn học miền Nam thời VNCH phong phú và đa dạng. Sau cùng, đã có nhiều bài báo, sách văn học sử, về văn học miền Nam thời kỳ VNCH được dịch, biên tập giới thiệu bằng các tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, do người Việt Nam hay người ngoại quốc thực hiện. Phải nói thẳng thật là thê thảm. Những tài liệu đó hoặc không nói đến, hoặc xuyên tạc, bôi nhọ văn học miền Nam thời kỳ VNCH. Do đó, hiện nay công chúng đang rất cần được cung cấp tài liệu để phục hồi hình ảnh trung thực, chính xác văn học miền Nam thời VNCH… Thiết tưởng, việc làm đầu tiên và cần thiết vẫn là tìm cho ra tư liệu. Về việc này, chỉ cần chụp photocopie các tài liệu văn bản với số lượng theo nhu cầu của các đại học, trung tâm Việt học, thư viện hay cá nhân muốn có. Trở lại việc bỏ qua hoặc bôi nhọ văn học miền Nam thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa, xin dẫn chứng hai trường hợp cụ thể 1. Nhà xuất bản Pháp xuất bản một tự điển các triết gia của cả thế giới, Dictionnaire des philosophes. Paris. 2 Được coi là triết gia, những vị sau đây ở miền Bắc Đào Duy Anh, Hồ Chí Minh, Hồ Tùng Mậu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Đặng Thái Mai, Trần Phú, Trường Chinh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khoa Văn Hải Triều, Phạm Như Cương, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Đồng, Trần Đức Thảo. Miền Nam gồm có Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Kim Định, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, mỗi người vài dòng. Jean Chesnaux, sử gia Mác-xít, viết bài “Fondements historiques du communisme Vietnamien” in trong tạp chí L’homme et la société, số 4, tháng 12, 1969, có nhận xét “Mặc dầu con số đông đảo trí thức trong hàng ngũ những người sáng lập và cả trong số những người lãnh đạo, CS Việt Nam không bao giờ tạo rúng động bởi những cuộc khủng hoảng ý thức hệ lớn lao không bao giờ nó tạo ra được một một nhà tư tưởng Mác-xít cỡ một Gramsci, một Li-da-Thao, một Lukacs, một Schaff. Nó không đóng góp về lý thuyết tổng quát cho phong trào Cộng Sản quốc tế, chỉ trừ một địa hạt -và đó là điều đáng kể- địa hạt quân sự.” trang 93. Nếu hiểu như J. Chesnaux, tự điển triết học không thể kể đến người Cộng Sản Việt Nam, trừ Trần Đức Thảo. Nhưng Trần Đức Thảo là người Tây phương gốc Việt, vì ngôn ngữ và nội dung triết học trong sách báo của ông là Triết học Tây phương, và viết bằng tiếng Pháp. Nếu hiểu người Mác-xít là người biến đổi thế giới, nghia là làm cách mạng, không phải giải thích thế giới như Marx đã quan niệm thì những người sáng lập, lãnh đạo đảng là Cộng sản, nhưng theo nghĩa đó thì không phải chỉ mấy người lãnh đạo, mà tất cả đảng viên các cấp đều là “triết gia” cả, và đáng được đưa vào tự điển các triết gia thế giới! Dù sao, tôi được biết cuốn này do cán bộ viện triết học thông báo, nhưng không quảng cáo, giới thiệu, chỉ nói nhỏ với nhau thế thôi, vì được khen mà lấy làm xấu hổ. Tôi nêu vấn đề với giáo sư Trịnh Văn Thảo, người trách nhiệm giới thiệu các vị kể trên vào cuốn tự điển này, và cũng không nhận được lời giải thích thỏa đáng. 2. Trường hợp thứ hai là cuốn Mille ans de littérature Vietnamienne, une anthologie. Editions Philippe Picquier, édition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc. Cuốn này do nhà xuất bản ngoại văn Hà Nội in lần đầu năm 1979, lần thứ hai cộng tác với với cơ quan ACCT của Pháp, và lần thứ ba do nhà xuất bản Philippe Picquier. Nguời chủ biên tủ sách Việt Nam là Phan Huy Đường, giới thiệu cuốn văn học sử này và là dịch giả nhiều truyện của mấy tác giả như Bảo Ninh, Dương Thu Hương… Trong lời giới thiệu, ông Phan Huy Đường cho biết cuốn sách này đã được hầu như tất cả chào đón và nó xứng đáng được như vậy, mặc dầu ông nhìn nhận những khuyết điểm, đặc biệt khuyết điểm liên quan đến văn học hiện đại không đả động gì hết đến văn học miền Nam thời VNCH mà ông đồng ý với các tác giả miền Bắc gọi là vùng do “Pháp Mỹ kiểm soát”. Ông Phan Huy Đường còn viết giới thiệu văn học Việt Nam trong Dictionnaire universel de la littérature, trong đó phần về miền Nam, sau 1954, ông gọi là văn chương của những người di cư và văn chương của người miền Nam là một thứ thập tự quân chống cộng Croisade anticommuniste. Thưa ông Đường, tôi chả biết nói gì với ông! Thật buồn, mãi đến 1996 mà ông chưa mở mắt ra. Ông ngồi ở Paris phán, mà chả hiểu gì tình hình miền Nam cả. Xin thưa với ông, ở trong nước, miền Nam có những người trí thức trẻ tuổi, không phải chỉ có cảm tình mà còn đi theo cách mạng. Họ tiếp xúc với chế độ qua các thể chế và ngôn ngữ công khai, chính thức. Lúc họ ra khu đi Hà Nội từ năm 1968 đến 1975, họ chán ngán ngay. Sau 1975, không thiếu những người trẻ đó như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ghé Paris, ông cứ hỏi, họ nói thật cho ông nghe. Xuân Diệu có chân trong ban biên tập cuốn Văn học sử Việt Nam có kể cho ông Trương Thi, bạn thân của Xuân Diệu và là hàng xóm của tôi Một viện Hàn Lâm Đông Âu ngỏ ý phong viện sĩ cho ông, nhưng cho biết chỉ xét thơ Xuân Diệu trước 1945. Nhà thơ vui vẻ nhận và Đảng cũng đồng ý với đảng nước anh em. Ông Nguyễn Linh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật của Trung Ương Đảng kể lại cho tôi Sau 1975, ông được Tố Hữu cử vào Nam tiếp quản văn hoá miền Nam. Về Hà Nội báo cáo với Trưởng Ban Tuyên Huấn. Ông đề nghị Tố Hữu chỉ đọc một cuốn truyện thôi Loan mắt nhung của Thụy Long, và sau một tuần sẽ trở lại xin ý kiến. Tuần sau, Tố Hữu phát biểu “Miền Bắc ta không ai viết truyện hay như thế”… Tôi đã xin phép ông Nguyễn Linh phổ biến câu truyện này. Theo tôi nghĩ, miền Bắc có thể có nhiều người viết hay hơn Nguyễn Thụy Long nếu họ được tự do viết. Trở về trường hợp Phan Huy Đường, khi những Bảo Ninh, Dương Thu Hương xuất bản truyện, ông hăm hở dịch giới thiệu với độc giả nói tiếng Pháp như những tác phẩm đầu tiên dám nói thẳng, nói thật về chiến tranh Việt Nam mà có lẽ ông không thấy là sau khi chiến tranh kết thúc, cả mười, mười lăm năm, miền Bắc mới được nói, và vẫn còn nói theo luận điệu chính thức; trong khi ở miền Nam, nhiều nhà thơ, nhà văn đã nói lên nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn quê hương ngay trong lúc chiến tranh đang diễn ra mà ông không biết đấy thôi. Và tôi xin mời ông cầm đọc những thơ văn đó. Về những cái nhìn sai lệch của Bảo Ninh, Dương Thu Hương trong truyện của họ, đối với độc giả Việt Nam, có thể không quan trọng mấy, nhưng khi truyện của họ đã được ông dịch sang tiếng Pháp và độc giả Pháp đã tiếp nhận từ hai tác phẩm này những cái gọi là “dã man” của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi xin chuyển đến ông và qua ông đến hai nhà văn đó, bài “Đôi mắt người bị xử bắn trong rặng bình bát” của Nguyễn Bửu Thoại. Ông đã dịch Bảo Ninh và Dương Thu Hương, liệu ông có nên dịch thêm bài của Nguyễn Bửu Thoại, dù chỉ là để cho những người bị hai nhà văn này buộc tội, có quyền được trả lời? Nguyễn Bửu Thoại có lời nhắn thêm như sau “Tôi mong bà Dương Thu Hương và ông Bảo Ninh đọc được truyện này. Tôi lặp lại lần nữa là tôi không có ý định viết chuyện để bênh vực người lính miền Nam, hoặc để phản bác lại hai tác phẩm của ông và bà vì một lý do rất đon giản tôi không hề là một nhà văn, nên không có tham vọng tranh danh, giật lợi bằng ngòi bút, theo lập luận đời thường đánh một người nổi danh để được nổi danh hơn. Tôi chỉ là người lính chiến trong cuộc, chứng kiến sự thật, kể lại sự thật, một sự thật nhỏ bé, trong vô vàn sự thật to tát, từ cuộc chiến tự vệ của miền Nam , một cuộc chiến bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị xỉ vả bởi những ngòi bút đứng trong hàng ngu của kẻ thắng trận.. Ông Đại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng trong truyện nay hiện đều định cư tại thành phố Houston sau nhiều năm trong trại cải tạo, còn bốn anh thương binh trong truyện có lẽ hiện vẫn còn sống, nếu không đủ cả bốn thì còn hai ba. Đây là một ấn tượng sâu sắc trong đời các anh nên chắc chắn các anh phải nhớ. Nếu truyện này được phổ biến trong nước và thật sự các anh là người có chút liêm sỉ, các anh sẽ không thể quay lưng lại sự thật của Quá khứ.” * Sau cùng , tôi vừa nhận được bản tin do tôi yêu cầu Đặng Tiến ở Paris gửi, về Võ Phiến và đại học Paris mà tôi thông tin lại dưới đây [3] Tôi không có ý kiến gì về luận án vì chưa đọc, chỉ ghi nhận ý kiến của Thụy Khuê, chắc chắn đã đọc kỹ Võ Phiến và Marcel Proust, một tác giả khó đọc, khó hiểu đối với những người không am tường văn học Pháp. Thụy Khuê nói Khi nghiên cứu văn bản của Võ Phiến, không thấy có gì giống Marcel Proust cả. Ngoài ra Thụy Khuê cũng phê bình “cách phê bình của Võ Phiến trong bộ Văn học miền Nam 6 tập không những không giúp ích gì cho sự tìm hiểu văn học miền Nam mà lại còn hại cho sự nghiệp văn học của Võ Phiến” Bài “Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ…”, tạp chí Hợp Lưu, Xuân Quý Mùi, số 68, tháng 12-2002 và tháng 1-2003, trang 34-37. Điều tôi lo ngại là bà Trương Thị Liễu, nếu chỉ dựa vào bộ Văn học miền Nam của Võ Phiến để tìm hiểu về lịch sử văn học miền Nam 1955-1975 thì có thể hiểu sai trước hết chính những tác giả mà Võ Phiến giới thiệu trong bộ sách đó, mà còn không hay biết gì về những người làm biên khảo phê bình, văn học sử và dịch thuật, là hai bộ môn mật thiết liên hệ đến văn học đối chiếu đã bị Võ Phiến gạt đi trong bộ sách của Võ Phiến. Ví dụ cụ thể, bà Liễu dịch Đông Kinh Nghĩa Thục là Institut du Tonkin, bố Tây cũng không hiểu là gì, kể cả Tây giám khảo! Tôi cũng lo ngại về khả năng am hiểu của bà về lịch sử văn học Việt Nam. Bà dựa vào Nguyễn Khắc Viện, soạn giả bộ Nghìn năm lịch sử Văn học nói ở trên, mục Glossaire, trang 400. Tại sao bà không tìm tài liệu của những người miền Nam như Nguyễn Hiến Lê mà Đặng Tiến, người hướng dẫn luận án đã lưu ý? Cuốn đó không khó kiếm đâu. Lá Bối tái bản ở Hoa Kỳ, có bày bán ở tiệm sách. Bà xem chú thích trang 44 và giải thích trang 47 sẽ rõ. Sau cùng, tôi lo ngại dự định của bà muốn “khôi phục một thời kỳ văn học bất hạnh dưới một chế độ phôi pha tại miền Nam từ 1954-1975″. Tôi không hiểu bà muốn nói chế độ phôi pha đó là gì, nhưng dù muốn đánh giá nó thế nào đi nữa, nó là chế độ đã cho phép – mặc dầu hạn chế – cho mọi xu hướng biên khảo, sáng tác được diễn tả, kể cả mảng thơ văn của giới trẻ Việt sau 1963 mà Võ Phiến gạt bỏ. Võ Phiến trong Đại học Như vậy là Võ Phiến đã được xưng tụng ở hải ngoại hầu như qua tất cả những hình thức quen thuộc Ngày Võ Phiến, những số đặc biệt của các tạp chí Văn học, những cuốn sách biên khảo, và sau cùng đề tài luận án Đại Học. Võ Phiến là một thần tượng Về chính trị được coi là người chống Cộng số một. Về văn học Lãnh đạo một trong bốn khối lớn văn học miền Nam trước 1975. Đó là những vương miện mà một số người ở hải ngoại đội lên đầu Võ Phiến, và Võ Phiến chấp nhận… Dĩ nhiên, có những người khác có lối nhìn khác Đất nước Việt Nam đã bị khốn khổ, khốn nạn vì có những người Cộng sản số một và những người chống Cộng số một. Ngày nay, ý thức hệ đó kể như không còn nữa, nhưng đất nước Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi được thân phận khốn cực, khốn nạn vì vẫn còn những người Cộng Sản sợ Cộng sản và những người chống Cộng sợ những người chống Cộng. Lời khen đối với một số người trở thành lời nguyền rủa hay than trách đối với những người khác. Nói về chuyện đứng đầu» một khối» hay nhóm» văn học, những người đương thời đều thấy đó là một cách dựng đứng để xưng tụng mà thôi. Như trên đã nói, hồi ký của Huỳnh Văn Lang, nguời sáng lập ra tạp chí Bách Khoa, tựa đề Nhân chứng một chế độ, tập 1 tác giả xuất bản, cho biết về nguồn gốc tờ báo và vai trò của Võ Phiến chỉ là một người cộng tác viết bài như những người khác trang 418-430. Huỳnh Văn Lang viết “Võ Phiến chỉ là cây bút viết đều, viết nhiều cho Bách Khoa, không hề giữ vai trò quy tụ, điều hành nào của tờ báo này.” Hồi ký Nguyễn Hiến Lê xuất bản Văn học , 414-431 cũng ghi nhận tương tự. Thực tế của văn học miền Nam, theo Nguyễn Hiến Lê “không có nhóm nào nổi bật, gây ảnh hưởng lớn trong văn chương như Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn trước 1945. Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẽ, cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hoá Ngày Nay. Trước sau vẫn giữ lập trường ôn hoà đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mỹ, như vậy làm sao nói nó như một phong trào ảnh hưởng tới quốc dân được như Tự Lực. Còn khối Sáng Tạo, do một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào lập nhóm, và họ muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô hào chống Cộng – điều này không có gì mới lạ – mà càng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại quốc và đã trở lại lối viết của TLVĐ trước kia, mà người cầm đầu Sáng Tạo – Mai Thảo – lại có bút pháp cầu kỳ ” làm duyên, làm dáng” không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng được tiếng vang nào cả.» trang 419 Ý kiến của Nguyễn Hiến Lê phản ánh dư luận chung của người đương thời về Sáng Tạo. Nhưng người của các thế hệ sau hoàn toàn có quyền có lối nhìn khác, chẳng hạn, coi tiểu thuyết của Mai Thảo là sâu sắc. Tuy nhiên, về phương diện văn học sử, phải tôn trọng ý kiến của người đương thời. Ngoài ra, cả Bách Khoa, Sáng Tạo đều được thành lập để thực hiện một chủ đích chính trị của người Mỹ và những người lãnh đạo nền đệ nhất cộng hoà, mà tôi sẽ nói ở chỗ khác. Với tư cách nhà văn, Võ Phiến chắc chắn có chỗ ngồi trong văn học sử Việt Nam thời VNCH. Người đọc và phê bình văn học có thể đồng ý với nhận xét của Nguyễn Hiến Lê về Võ Phiến “viết tiểu thuyết, nhưng thành công nhất về tạp bút tùy bút ý sâu sắc và lối viết dí dỏm” trang 416, “tạp bút của ông được nhiều người thích hơn… Đông Hồ khen là nhất miền Nam. Về loại đó, ông sâu sắc như Nguyễn Tuân mà tự nhiên hơn, dí dỏm hơn, đề tài phong phú hơn, đa dạng hơn, nhưng ông cũng có tật hay gợi đến vấn đề sinh lý.” trang 430. Võ Phiến viết tiểu thuyết, tuỳ bút được lắm, nhưng viết tùy bút liên quan đến chính trị, chọn đứng ở một phía, chỉ cho thấy cái lý của một phía trong khi thực tế ở Việt Nam, là chiến tranh ý thức hệ. Chỉ ở một phía mà muốn vượt trên cái lý của các bên, để đi đến cái bi đát, bi thảm là không thể, bởi vì cái bi đát, bi thảm không xóa bỏ cái lý mà chỉ vượt lên trên. Cho nên, nếu chỉ đứng ở một phía, nhà văn Võ Phiến không viết được cái bi thảm, bi đát, vì sự lựa chọn của ông, tự nó đã bỏ qua cái bi đát bi thảm của từng gia đình, kể cả gia đình Võ Phiến ông có người em ruột ở phía bên kia, chưa nói đến cái bi đát bi thảm của đất nước. Võ Phiến bỏ lãnh vực sáng tác, bước vào lãnh vực phê bình văn học, rồi Văn Học Sử là hai địa hạt vượt khỏi chuyên môn và tài năng của Võ Phiến. Vì vậy, ông đã phạm những sai lầm thật trầm trọng. * Viết xong những dòng kể trên, đụng đến Võ Phiến, tôi đọc bài “Cây thông” của Phan Lạc Tiếp trong Tạp chí Đi Tới, Montréal số Xuân Quý Mùi 2003. Phan Lạc Tiếp ca tụng Võ Phiến thật tình và người đọc không thể không nhìn nhận lòng thành của ông. Nhìn một người dựa vào một số dữ kiện bề ngoài tính tình hiền hậu ăn nói hoà nhã, đã lớn tuổi không còn sống bao lâu qua nhiều lần giải phẫu, tuy vậy vẫn cố gắng sưu tầm viết về văn học miền Nam đã bị cộng sản xóa bỏ thì dù công trình đó thế nào đi nữa cũng đáng được trân trọng biết ơn. Nhìn như thế phải đi tới kết luận như vậy, thật hợp lý với lối nhìn đã lựa chọn và đúng trong khuôn khổ lối nhìn đó. Nhung nếu dựa vào những dữ kiện khác, sẽ đưa đến một kết luận khác cũng thật hợp lý với lối nhìn đã lựa chọn và cũng đúng trong khuôn khổ lối nhìn đó. Cả hai kết luận đều đúng trong mỗi lối nhìn và do đó chỉ khác nhau. Lối nhìn thứ hai như sau Nghiên cứu, giảng dạy văn học ở các trường trung học đại học thời VNCH chưa đạt được quy chế “statut” của một bộ môn khoa học như y học, luật học. Hai trường y khoa và luật khoa đào tạo những người chuyên môn về luật và y, ra làm luật sư bác sĩ. Những người không xuất thân từ những trường đó không dám đụng đến chuyên môn về y học luật học. Trái lại đại học văn khoa dạy văn chương, sử ký thì chưa. Tình hình chung là có người chỉ biết ít nhiều về văn chương VN, sử ký VN đọc thêm chút ít nữa viết ra một số bài là có thể trở thành nhà nghiên cứu văn chương, lịch sử. Đó là một thiếu sót tất yếu không thể tránh được; phải chờ đợi nhiều năm nữa Đại học văn khoa mới có những người chuyên môn về văn sử, ngôn ngữ, hán nôm, Phật học, tốt nghiệp không phải ở các đại học Âu Mỹ mà ở các đại học Đài Loan, Nhật Bản, Ấn Độ, tạm đủ để tạo một ban giảng huấn có học vị chuyên môn. Tạm thời Đại học văn khoa vẫn phải trân trọng mời các vị học giả làm giáo sư của trường, hoặc giáo sư thỉnh giảng, đôi khi mời cả những người sáng tác đến nói chuyện cho sinh viên học hỏi kinh nghiệm viết văn nhu Thanh Lãng đã mời Tam Lang, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Hoàng. Xem những bài tường thuật trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học năm 1971 Như vậy phải nhìn nhận có một tình trạng lạc hậu chậm tiến về mục tiêu tiến tới quy chế một bộ môn khoa học của ngành văn sử miền Nam VN so với các ngành khác. Sự kiện này đã cho phép nhiều người không có tú tài hoặc có chuyên môn khác như luật sư, bác sĩ, bước vào lãnh vực văn, sử. Thật ra những lạm dụng danh nghia về văn sử trầm trọng cũng ít xảy ra, vì dư luận báo chí không buông tha. Trong tình hình như thế thật khó tưởng tượng một vụ đề cao Võ Phiến như đã thấy ở hải ngoại, đã có thể xảy ra trong thời VNCH. Tôi không biết ở nơi nào, thời đó, các đại học công tư như Vạn Hạnh, nơi quy tụ nhiều học giả, có ý định mời Võ Phiến nói một buổi về kinh nghiệm viết văn của mình hay chưa. Tuy nhiên một tập giới thiệu tình hình văn nghệ miền Nam của Thế Phong 1957-1961, in roneo 50 bản, cũng nhắc đến Võ Phiến “Võ Phiến qua Người tù, Chữ tình, những truyện ngắn đầu tay là kinh nghiệm sống rất đậm, kinh nghiệm ở khu kháng chiến, nói lên được khía cạnh nhân bản trong phi nhân bản mác-xít. Về sau này, thấy ăn khách và ăn tiền khai thác quá tay nên trở thành nhàm chán lố bịch.” trang 17 Nhưng biến cố 30/4/1975 đã buộc một số đông người Việt bỏ nước ra đi định cư ở Bắc Mỹ. Trong cái rủi có cái may đi Mỹ không phải đi du học mà đi định cư với cả gia đình, trở thành công dân nước giàu mạnh và có nền văn hóa sinh động nhất thế giới. Những người thiên về khoa học tự nhiên đã sớm hội nhập vào xã hội mới. Còn những người viết văn, viết báo, đáng lẽ nên lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở này để học hỏi văn hóa, văn học Mỹ qua những tổ chức trong và ngoài đại học, nhằm giảm bớt những khoảng cách lạc hậu chậm tiến của mình so với trình độ tiên tiến của nước mà nay mình nhận là quê hương thứ hai, nhiều người lại lựa chọn tiếp tục lối sống, cảm nghi làm văn học như ở VN. Do đó xảy ra tình trạng là một số người tạo ra đủ các chiêu bài, giả vờ tin là thật, rút cục tin thật điều giả vờ, để tự lừa dối và lừa dối người khác. Võ Phiến thay vì bận tâm tự biện minh bằng cách so sánh việc làm của mình với của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan đều đã lỗi thời từ lâu, nên nghĩ đến việc so sánh mình với những nhà biên khảo văn học nổi tiếng hiện nay của Hoa Kỳ hay của thế giới. Tôi không trách Võ Phiến, như có người đã làm, về lối nhìn đánh giá chủ quan của ông. Tính chủ quan là không thể tránh được trong nghiên cứu những vấn đề sinh hoạt của con người mà kiến thức khoa học tây phương hiện nay đã chứng nhận. Tôi chỉ trách chủ quan của Võ Phiến là võ đoán, không dựa trên một lý luận văn học nào mang tính cách khoa học. Tôi cũng không trách Võ Phiến nói nhiều đến người này, nói ít về người khác, rất sơ sài về thông tin, mà chỉ trách thái độ tùy tiện của Võ Phiến. Theo chỗ tôi biết có hai cách tiếp cận với tác giả tác phẩm, lịch sử hay phi lịch sử. Cách tiếp cận lịch sử đòi hỏi trình bày càng đầy đủ chính xác càng hay, những thông tin về thời đại, cuộc đời của tác giả và xuất xứ của tác phẩm. Còn lối nhìn phi lịch sử, theo cấu trúc luận chẳng hạn, chỉ cần có đủ văn bản của một tác giả hay nhiều tác giả trong một thời kỳ hoặc nhiều thời kỳ để tìm ra những yếu tố bền vững phổ quát của một tác giả hay nhiều tác giả, bất xét những chi tiết về thời cuộc cuộc đời của tác giả. Cách làm của Võ phiến thật tùy tiện, đối với người này, hầu như chẳng có thông tin nào về tác giả tác phẩm, như thể Võ Phiến tiếp cận theo lối phi lịch sử. Đối với người kia Võ Phiến kể một số thông tin về thời đại con người thực ra chỉ là những giai thoại nghe được biết được, không phải những sự kiện ghi nhận có kiểm tra, nêu xuất xứ. Võ Phiến nói không dám phê bình, thật ra Võ Phiến không phê bình khen chê dựa trên những lý luận mà dựa vào những đánh giá của người khác coi như của mình, và đôi khi bày tỏ một thái độ cao ngạo khinh miệt người khác. Chẳng hạn nói về thơ Nguyên Sa, Võ Phiến viết về hình thức chối từ tiết điệu, gì chứ chuyện ấy thì ông Phan Khôi đã làm từ khuya, mới mẻ gì đâu. Học theo tác giả bài Tình già thôi. i>Văn học miền Nam, thơ trang 2917. Nếu Nguyên Sa còn sống, liệu có để yên không? Nói về truyện của Nguyễn Thị Hoàng NTH, Võ Phiến chỉ ghi một nét tiểu thuyết của nữ sĩ này ồn ào nhất trong số các nữ sĩ thuộc tầng lớp mình. Cái yêu đương của NTH nó ồn là bởi… nó ồn, hãy biết thế… Nói về cuốn Vào nơi gió cát Võ Phiến ghi nhận chữ nghĩa quấy động ầm ầm quả như một góc địa cầu sụp đổ. Sách ấy là truyện chăng? Là tiểu thuyết chăng? E không hẳn. Từ đầu chí cuối có truyện gì đâu, toàn là gào thét. Cũng là một nàng chinh phụ với một chàng vào nơi gió cát, nhưng ở Đoàn Thị Điểm là Chinh phụ ngâm, ở NTH là “chinh phụ thét, chinh phụ rống. Nghe hãi lắm cơ, hãi lắm.” Chưa hết. Võ Phiến lôi đời tư của NTH ra chê bai “Tình cờ mà NTH với Kim Lefèvre cùng sinh vào năm 1939, cùng học ở Nha Trang, về sau cùng là văn sĩ tiếng tăm. Vào thập niên 50 ở Nha Trang có xảy ra hai mối tình thầy trò. Hai nữ sinh yêu thầy, mỗi người phản ứng mỗi khác”. Tiếp theo Võ Phiến chê trách thái độ của NTH. Theo chỗ tôi biết ông thầy ở Nha Trang là Cung Giu Nguyên năm nay trên duới 90 tuổi, một nhà văn viết tiếng Pháp nổi tiếng cuối cùng vẫn còn sống từ thời đó cho đến nay. Tôi không thấy nhà phê bình nào lôi đời tư của nhà văn ra mà phê bình. Cuối cùng Võ Phiến khai tử sự nghiệp viết văn của NTH, coi như đã ngưng nghỉ từ lâu trước 75. Văn nghiệp của bà không có gì đáng kể sau cuốn Vòng tay học trò Văn học miền Nam, truyện, tập 2 những trang từ 1093 – 1102. Trong Văn học miền Nam truyện, 1, có hai bài viết về Bình Nguyên Lộc; toàn bài đầu, Võ Phiến so sánh Bình Nguyên Lộc với Sơn Nam, đưa ra những giai thoại về chuyện ăn khách, không ăn khách, phá giá văn chương, viết hay, viết dở, … không ăn nhập gì đến sự nhận định nội dung các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. Bài thứ nhì nguyên là bài tựa trong tuyển tập Bình Nguyên Lộc do An Tiêm xuất bản, 1999, đứng đắn hơn, phần đầu cho người đọc biết một số chi tiết về cuộc đời Bình Nguyên Lộc cùng các tác phẩm đã bị thất lạc theo Nguyễn Ngu Í. Nhưng tệ nhất, Võ Phiến đã sử dụng những vụ việc ngoài văn bản, để suy diễn và kín đáo “đánh giá” Bình Nguyên Lộc “Nhất Linh mời Bình Nguyên Lộc cộng tác làm báo, nhưng Nhất Linh không đề cử Bình Nguyên Lộc vào Tự Lực Văn Đoàn, không đưa sách ông vào các nhà xuất bản Phượng Giang, Đời Nay, như đối với một số nhà văn khác lúc bấy giờ Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam, …. Tại sao vậy? Một cách đánh giá chăng?” trang 529 Nhất Linh không đề cử Bình Nguyên Lộc vào Tự Lực Văn Đoàn, có thể chỉ vì ông coi Bình Nguyên Lộc như một đồng nghiệp, có kinh nghiệm làm văn, làm báo từ những năm 42, 43…, Bình Nguyên Lộc không phải là hàng đàn em như Nhật Tiến, Linh Bảo…, và không đưa sách Bình Nguyên Lộc vào nhà xuất bản Phượng Giang vì Bình Nguyên Lộc đã có nhà xuất bản Bến Nghé riêng, đã có tuần báo Vui Sống riêng, từ năm 1959. Cách đặt câu hỏi một cách mập mờ để gián tiếp ảnh hưởng độc giả, khi đã biết rõ câu trả lời, rồi từ đó “liên tưởng” tới những giai thoại khác như Sơn Nam mua Nhốt gió, đọc đi đọc lại thích, vì “giống như ca dao”, để đi đến kết luận ông Sơn Nam có đọc truyện đâu! Ông đọc … ca dao! trang 530 Dùng những ý kiến của Cao Huy Khanh, Nguyễn Văn Sâm không thích Bình Nguyên Lộc để gián tiếp chê bai “Về cái giảng giải khỏi cần dông dài Một sự kêu trời rập ràng của hai vị Cao-Nguyễn vừa rồi đã đủ. Giảng làm chi chứ hả? Tiểu thuyết gia nào phải thầy cô của ai đâu; độc giả tìm đến cuốn truyện nào có ý học hỏi gì đâu mà tự dưng hạ người ta xuống phận học trò cho người ta í ới thảm thương!” trang 531 Một giọng văn giễu cợt, thổi phồng những nhược điểm, mà quên không nhắc ưu điểm, đặc biệt coi thường người mình phê bình, ít thấy ở một cuốn sách văn học sử hay tuyển tập phê bình nào. Về Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến nhạo báng một cách khác “Vấn đề” là sự yêu thích, là sở trường của ông. Trong các cái ông viết nhân vật không có mẹ Lê, có Xuân Tóc Đỏ, có cô Loan cậu Dung nào. Tức không có những kẻ chúng ta vẫn gặp ngoài đời, trong xã hội quanh mình. Lại có toàn những ông Thành Cát Tư Hãn, gã Sơn Ca, có Thằng Cuội, Chức Nữ, Ngưu Lang, có Lưu Thần, Nguyễn Triệu, có một lu quạ con nói leo lẻo, và có cả ông Trời luôn! Những nhân vật như thế, cái cốt cách như thế, ở vào thời đại xa xưa huyền hoặc như thế, cái cốt cách của họ khác ta, khác của người đời bây giờ; mà khung cảnh đất trời xung quanh họ cũng khác lạ” trang 1802, truyện, 3. Sau đó, Võ Phiến trích một số đoạn trong Thần Tháp Rùa để dẫn chứng “sự khác lạ” này và đi đến kết luận về văn phong của Vũ Khắc Khoan “Nó phảng phất lối văn của Nhất Linh thời Hồng Nương! Hồng Nương!” trang 1803. Rồi tiếp đó, lại mượn lời Uyên Thao để viết mấy trang về cái “ưỡn ẹo” của Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan và Nguyễn Thị Hoàng “Về cách ưỡn ẹo, ông Uyên Thao kể tên Mai Thảo trước, Vũ Khắc Khoan sau. Lẽ ra tên ông Vũ nên được đặt trước ông lớn tuổi hơn, lại bắt đầu văn nghiệp sớm hơn” trang 1804. Phê bình tư tưởng của Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến chế giễu “Ông Vũ dấy động lên các vấn đề. Chuyện này là cái cớ của một vấn đề; chuyện khác lại là cái cớ để ông nêu ra vấn đề khác, không có chuyện gì ông cũng bịa ra vấn đề, ông quay cuồng giữa bao nhiêu là vấn đề, ông hô phong hoán vũ tạo ra vấn đề, để nói ngông chơi.” trang 1807 Một cách viết “phê bình” như vậy, không còn “vấn đề” nghiêm chỉnh nào có thể bàn được, bởi chính “nhà phê bình” đã đưa nhà văn ra làm thằng hề để giễu cợt dưới mắt người đọc. Về Mai Thảo, Võ Phiến bác bỏ toàn bộ văn phong của Mai Thảo “Ông dựng câu văn đẹp. Đẹp thì tốt quá. Đẹp thì gây xúc cảm, mỹ cảm, thì làm người đọc mê tơi. Nhưng người viết mải mê tìm đẹp có khi chệch cái, đâm hỏng. Đó là cái hỏng của câu văn kêu.” trang 2369, kịch, tùy bút. Rồi ông trích những câu văn của Mai Thảo ra để “bình” “Bảo rằng chữ nghĩa rổn rang, danh từ to lớn, câu cú kiểu cọ… là thủ phạm thì oan”, “phấn tốt, son cũng tốt. Nhưng quá đáng thì đâm ra dị hợm. Một vầng trán cao, hay lắm. Nhưng cao như trán hói, mất hay. Cái quá đáng trong son phấn, trong sự trang sức ấy, ông Nguyễn Hưng Quốc khéo léo dùng chữ “loè loẹt”. Ông Uyên Thao bảo đó là “ưỡn ẹo”” trang 2370 “Chắc chắn từ ngày khoa cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ, không mấy ai sính văn biền ngẫu bằng Mai Thảo” trang 2371 “Lời đẹp là lời bóng bẩy, cầu kỳ. Câu muốn đẹp, ông xây dựng cho nó những kiến trúc thật lạ, thật rắc rối. Mải mê theo những cái ấy, lắm khi ông quên rằng chúng nó cũng cần có một cái nghĩa.” trang 2372 “Trong hối hả, người duy mỹ vẫn nhất định vươn phóng. Vươn phóng quá quắt, mà cực nhọc quá chừng. “Một rú thét kín trùm”. Chao ôi!” trang 2374 “Vội vàng, đã một bất lợi. Lại còn nỗi cực đoan, sốt tiết. Động tới cái gì ông cũng phóng đại lên, đẩy tới chỗ tột cùng. Trong ngôn ngữ ông có cả một kho tiếng lớn. Như thể kho vũ khí hạng nặng để công phá ầm ĩ “ngọn đỉnh trời”, “đêm ngà ngọc”, “nhận thức luận về mọi hiện tượng của cấu thành và huỷ thể” …” trang 2374 Điều đáng ngại là một tuyển tập có tính cách văn học sử và phê bình, được người ta coi là “chính thức” như vậy về văn học miền Nam, sẽ cho người đọc một đánh giá sai lạc về những tác giả được giới thiệu. Một vài dẫn chứng trên đây cho thấy, theo Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, chẳng có tài cán gì cả Bình Nguyên Lộc thì hời hợt, chỉ biết giảng giải; Vũ Khắc Khoan bày các trò hề, chẳng có vấn đề cũng bịa ra vấn đề để nói ngông chơi; Mai Thảo, sốt tiết, dị hợm, đặt những câu văn vô nghĩa, Tất nhiên, ông có chêm vào một vài câu khen hoặc không chê, nhưng những câu này không được khai triển, chúng tắt ngấm, chìm lấp trong không khí nhạo báng, giễu cợt. Toàn thể bài viết, hầu như không có chỗ nào Võ Phiến muốn thật sự tìm hiểu những cái hay của của các tác giả này để trình bày với người đọc. Xét về mặt đạo đức nghề nghiệp của người phê bình, ở đây đã không thấy có, chưa kể đến giọng mỉa mai, châm biếm, và hạ thấp các đối tượng mà Võ Phiến muốn giới thiệu với độc giả. Ngày nay, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan đều đã qua đời, không ai có thể nói lại. Tôi là người cùng thời và còn sống, bắt buộc phải lên tiếng vì không thể bỏ qua. * Sau cùng, đúng như Võ Phiến đã thú nhận bỏ mà không quên trong việc Võ Phiến gạt ra ngoài bộ Văn học miền Nam, một mảng lớn thơ văn của những người trẻ viết sau 1963, vì lý do chính trị. Ông tố cáo những người đó viết trong các tạp chí của Cộng sản hay tiếp tay cho Cộng sản. Như vậy sự phủ nhận của Võ Phiến có khác gì sự phủ nhận văn học miền Nam mà những cán bộ miền Bắc thường làm? Cả hai đều vì lý do chính trị, nhưng thực sự ở trong trường hợp sách Văn học Miền Nam thì có khác, phủ nhận một bộ phận trong văn học ở đây chỉ vì động cơ cá nhân của người phủ nhận. Những người viết phủ nhận văn học miền Nam, trong sách báo ở miền Bắc, có thể chỉ làm theo đường lối chính sách, nhưng trong thâm tâm thì thích thú và cảm phục. Còn Võ Phiến có chính phủ đảng cầm quyền nào ở hải ngoại buộc Võ Phiến phủ nhận đâu? Tuy nhiên tôi thấy không thể thuyết phục được những ai xưng tụng Võ Phiến bằng lý luận dù hợp lý và vì thế phải đưa ra môt lối nhìn khác không dựa vào lý luận mà vào lối tiếp cận qua xã hội học, địa lý chính trị như tôi đã làm khi tìm hiểu văn học miền Nam thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 trong tập Hồ sơ Lục Châu Học. Người miền Bắc khó hiểu được tại sao miền Nam có nhiều những ông đạo kể cả đạo Cao Đài. Đào Trinh Nhất, một ký giả nổi tiếng người Bắc vào sinh sống trong Nam, viết cuốn Cái án Cao Đài lúc đạo này mới xuất hiện. Lý luận rất có hệ thống hợp lý nhưng không thuyết phục được ngừơi Cao Đài. Những nguời Pháp đứng đầu về an ninh hành chánh Nam kỳ nghiên cứu theo xã hội học hiện tượng Cao Đài Xem Lalaurette et Vilmont, Le Caodaisme. Bản đánh máy 132 trang đã đi đến kết luận Cao Đài là một hiện tượng thuần túy Nam kỳ Strictement cochinchinois nhằm đáp lại một nhu cầu về tâm linh của người Nam kỳ. Do đó họ cho phép Cao Đài hoạt động ở Nam kỳ, nhưng cấm ở Trung-Bắc kỳ và Cao Mên. Tương tự như thế, những người Âu châu vùng đất cũ cũng khó hiểu những đạo xuất hiện ở Bắc Mỹ vào những thế kỷ 18-19 mặc dầu những đạo đó đều bắt nguồn từ Kitô giáo mà không phải Công giáo hay Tin lành. Trong cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ hiện nay có những hiện tượng như Trương Tấn Đạt, một luật sư nguời Công giáo ở Sài Gòn trước 75, hiện tượng Thanh Hải vô thượng sư. Tôi có tìm hiểu bằng phỏng vấn trực tiếp độ 30 người trí thức trẻ người Việt và người Mỹ, Canada để tìm hiểu tại sao họ nhận Thanh Hải làm sư phụ mặc dầu họ là những người gốc đạo Thiên chúa hay Phật giáo. Tôi cũng thấy Thanh Hải đáp lại một nhu cầu về tâm linh của họ. Kim Định một linh mục viết những sách về Việt Nho, trước 75 mặc áo dài trắng như Cao Đài được nhiều sinh viên ưa thích. Nhưng chỉ đến khi sang Bắc Mỹ những người ưa thích mới tổ chức thành nhóm trao đổi in sách của Kim Định, coi Kim Định như một thứ sư phụ, nhưng chính Kim Định lại cảm thấy cần một sư phụ. Tôi có đọc một thư của Kim Định gửi Thanh Hải vô thượng sư xin được làm đệ tử của Thanh Hải, nhận Thanh Hải làm sư phụ thư này không giả mạo vì tôi biết chữ của Kim Định. Tìm hiểu lối nhìn đánh giá của Võ Phiến trong Văn học Miền Nam tôi cũng nhận ra đây không phải là phong cách của người làm văn học, mà như thể của một thứ sư phụ trong văn học, không dựa trên lý luận, mà trên một uy tín tinh thần, đã được gán cho để khen chê người nọ người kia. Chẳng hạn nói đến Nguyễn Mộng Giác NMG, một người đồng hương, Võ Phiến ca tụng dựa vào một cú điện thoại của Lê Tất Điều “NMG viết truyện hay quá trời.” Về con người NMG cũng được yêu thích, tóm lại không có điểm nào có thể chê trách NMG được. Nhưng đến Nguyễn Thị Hoàng thì nhà văn nữ này viết truyện chỉ là gây ồn cũng như đời sống yêu đương cũng chỉ là ồn ào. Những người ngưỡng mộ Võ Phiến không thấy cung cách của Võ Phiến là không phù hợp với những đòi hỏi phê bình của nghiên cứu khoa học, vì thế nếu những người không chia sẻ lòng ngưỡng mộ Võ Phiến mà chê trách Võ Phiến, chỉ càng làm cho những người ngưỡng mộ Võ Phiến, ngưỡng mộ hơn mà thôi. Vậy những ai không ngưỡng mộ Võ Phiến như một sư phụ thì xin hãy chịu khó đi tìm lại nền văn học đó trong một bộ Văn học Miền Nam» khác. [4] Trong bài “Sưu tầm lưu trữ khai thác vốn cũ văn học VN” tạp chí Hợp Lưu số 47 /1999, tôi đã đưa ra đề nghị cụ thể ước mong cộng đồng người Việt thiết lập một thư viện văn khố Việt Nam và tôi sẵn sàng đóng góp phần của mình – ngày trước, tôi nhận được thư của ông Lê Đình Điểu loan báo việc thành lập “Người Việt Foundation”, và đóng góp 50 ngàn đô-la. Tôi đáp lời ông Điểu, nói tôi không có tiền, nhưng có sách báo chả nhẽ bán đi mà góp tiền? Chẳng may ông Điểu qua đời, không rõ hội này bây giờ ra sao. Thực tế những ai cần đọc hoặc những bài của mình hoặc của bạn bè hay của các tạp chí, chỉ cần tìm lại các tập san báo chí ra đời tại miền Nam trong thời gian 1955-1975 để sao chụp, không phải chỉ các tạp chí Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày, Nghiên Cứu Văn Học, mà cả Sáng Tạo, Thế kỷ 20, Hiện Đại, Văn Nghệ, Văn Hóa Ngày Nay, Văn, Vấn Đề, Bách Khoa… Đọc rồi thì đọc lại, chưa đọc thì nên tìm đọc. Tìm về chính văn bản các tác phẩm thuộc mảng văn học miền Nam thời VNCH, chắc chắn sẽ thấy nền văn học này phong phú đa dạng như những người miền Bắc nhận xét sau 75. Về tính chất, văn học này không có tính Đảng hay Quốc gia hiểu trên phương diện ý thức hệ, mà chỉ có tính Việt Nam. Người Cộng sản nằm vùng chỉ có thể làm thứ văn chương biểu lộ tính VN tính dân tộc để quy tụ, tranh thủ những người Quốc gia chống Cộng tham dự các tổ chức sinh hoạt tranh đấu của họ. Trong Văn học miền Nam – tổng quan, Võ Phiến nhắc tới tờ Tin Văn được sự chỉ đạo của Cộng sản, và vì thế “thuộc hẳn về giặc rồi, còn những tờ Trình Bày, Đối Diện đóng góp rất nhiều cho Cộng sản trong việc thôn tính miền Nam, Hành Trình, Đất Nước cũng đóng góp được đáng kể đấy. Nghiêm chỉnh, trịnh trong, ngây thơ họ đóng góp đều đều chăm chỉ cho Cộng sản.” trang 216-217. Xin mời đọc lại một chứng từ Tin Văn số 15 tường thuật cuộc hội thảo về phê bình văn nghệ ngày chủ nhật 15-01-1967, quy tụ 250 nhân si, trí thức, ký giả, văn nghệ sĩ, trong số đó có những người như Hiếu Chân, Nhật Tiến, Bùi Hữu Sủng, Lê Xuân Khoa, Đặng Văn Nhâm… Buổi hội thảo do mấy hội văn hóa của Thành Đoàn, -cơ quan lãnh đạo bí mật nội thành của Đảng CS- và tạp chí Tin Văn, Bách Khoa -mà Võ Phiến nhận là trưởng khối. Hai thuyết trình viên Nhật Tiến và chủ nhiệm Tin Văn Nguyễn Ngọc Lương. Sau buổi hội thảo có lời tuyên bố do chủ tịch đoàn gồm những vị Bùi Hữu Sủng, Hiếu Chân, Đặng Văn Nhâm, Bùi Chánh Thời, Thế Nguyên ký tên. Như vậy, 250 nhân sĩ trí thức có đóng góp tích cực vào việc thực hiện đường lối tranh đấu trên mặt trận văn hóa ở vùng Mỹ-Ngụy bị tạm chiếm hay không? 10 năm sau 1975, Thành đoàn xuất bản cuốn Trui Rèn Trong Lửa Đỏ, kể lại các thành tích đạt được trước 1975, trong đó, có bài của Vũ Hạnh nói về Tin Văn, -cơ quan của Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc. 25 năm sau sau 1975, Lữ Phương chống đối công khai Nguyễn Ngọc Lương và Vũ Hạnh, oán trách Đảng, than thở với bạn bè Sài Gòn. Khi chủ nghĩa nhân danh nó để hoạt động không còn thì sự lợi dụng chánh trị cũng không còn, chỉ còn bản thân tác phẩm của những tác giả với những tấm lòng chân thành, những ước vọng cao cả và những ý định tố cáo chính đáng, quy chụp tố Cộng, mặc dầu trong trường hợp Vũ Hạnh là đúng, nhưng vấn đề không phải là đúng hay sai mà người cầm bút làm văn hóa không thay thế vai trò của người làm công an. Do đó, tờ Tin Văn vẫn là một bộ phận không thể tách rời của văn học Miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà, cần được trân trọng như những tạp chí khác. * Bài này viết từ Montréal, nhìn từ Bắc Mỹ. Tôi đi Âu châu Luân Đôn, Paris, Strasbourg, để có dịp nhìn lại vấn đề từ Âu châu, và cả từ Việt Nam qua thư từ của bạn bè ở Sài Gòn, đặc biệt của Trần Thái Đỉnh, tác giả cuốn Triết học hiện sinh, bán chạy, do Võ Phiến xuất bản. Tôi gặp lại Diễm Châu ở Strasbourg. Diễm Châu với Thế Nguyên đã điều hành các tạp chí Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày, biết rõ những giao dịch với các bạn cầm bút cộng tác với các tạp chí kể trên và với những bạn khác có liên hệ như Võ Phiến. Diễm Châu kể cho tôi nghe những khó khăn, áp lực chính trị từ nhiều phía mà hiện nay chưa thể tiết lộ được. Riêng đối với Võ Phiến, Diễm Châu cho biết những gì Thế Nguyên và Diễm Châu đã trân trọng làm cho Võ Phiến, như giới thiệu tác phẩm của Võ Phiến; và qua những người bạn của hai người, cung cấp cho Võ Phiến, những kiến thức về các nhà văn phuong Tây như Marcel Proust… Võ Phiến đã viết thư cám ơn những giúp đỡ đó. Diễm Châu sang Hoa Kỳ, được đọc những lời Võ Phiến “tố cáo” Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày, và riêng Thế Nguyên thì được chỉ đích danh là “cán bộ cộng sản”. Diễm Châu vẫn giữ im lặng cho đến bây giờ. Diễm Châu và tôi, chúng tôi thấy cần lên tiếng về bộ Văn học miền Nam, nhất là công trình biên soạn này, được giới Đại học ở một vài nơi coi như tài liệu đáng tin cậy. Theo chỗ chúng tôi nhận định, bộ Văn học Miền Nam đã có những đánh giá sai lạc về mặt văn học, đối với nhiều nhà văn mà tôi đã kể ở trên, không đáng được coi là phê bình văn học nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, về mặt chính trị, chúng tôi hoàn toàn thông cảm với Võ Phiến, đã nói và viết về văn học miền Nam trong hoàn cảnh được xưng tụng là người chống Cộng số một, mà một người khác trong vị trí đó, có lẽ cũng phải làm như Võ Phiến. Một cách tích cực, chúng tôi thấy cần phải nhìn nhận lại dung mạo của một nền văn học phong phú và đa dạng hiện đang bị bụi thời đại phủ mờ, nhưng lại thiếu những bàn tay chăm sóc đúng mực nên đã làm nó tiêu trầm thêm. Nói khác đi, chúng ta hôm nay và mai sau đều rất cần một bộ Văn học Miền Nam» khác. * Lời nói cuối Vì con em chúng ta Nguyễn Thụy Long ở trong nước cho biết thời đổi mới hàng loạt sách trước kia bị cấm đọc nay được tái bản. Những sách của Tự Lực Văn Đoàn được tái bản hầu hết. Hồi ký viết trên gác bút, Văn Nghệ, 1999. Trước 1975, Thanh Lãng đã sưu tầm , quay ronéo hơn 20 tập giới thiệu các tạp chí trước 1945 cho sinh viên Ban Văn chương truờng đại học Văn Khoa dùng, chưa in thành sách. Sau 1975, nhóm giáo sư dạy văn TPHCM đã đem in được vài tập. Không phải chỉ sách báo thời VNCH mà cả sách của hải ngoại cũng được tái bản. Bộ truyện dài Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác đã được tái bản trong nước, không phải do tác giả yêu cầu mà một nhà xuất bản đề nghị, trả nhuận bút đàng hoàng, trân trọng giới thiệu, không một lời nào nói đến chính trị, không có ra mắt sách để tác giả khỏi bị phiền hà ở hải ngoại. Nhưng căn bản vấn đề là tư tưởng lý luận chỉ đạo và phương pháp luận những cách tiếp cận. Mấy chục năm thực hiện chính sách xoá sạch đốt sạch văn hoá là dựa trên tư tưởng lý luận nào? Bây giờ chủ trương đổi mới là dựa theo lý luận nào? Cho đến nay chưa có những trao đổi ý kiến thảo luận thẳng thắn về hai điểm của vấn đề căn bản này. Đảng có một ban văn hoá tư tưởng. Công giáo cũng có một thể chế tương tự. Công đồng Vatican II nhằm mục đích đổi mới tưởng chừng đã có thể xoá bỏ được cơ quan phụ trách bảo vệ sự thuần khiết của tín lý, nhưng dần dà nó lại được phục hồi gần như cũ. Dù sao vẫn có những nhóm tư tưởng khác, ngay cả bị cảnh cáo cấm đoán vẫn tiếp tục dóng lên tiếng nói của mình, và ảnh hưởng sâu đậm trong cộng đồng tín hữu. Ở hải ngoại, không có đảng lãnh đạo, không có ban văn hoá tư tưởng để duy trì một Hội Nhà Văn, trái lại có quá nhiều hội nhà văn, ba bốn trung tâm văn bút, xung tụng đề cao nhau, không ai bảo được ai. Rút cục sinh hoạt văn học cũng bị trì trệ. Vậy phải giải quyết thế nào nhu cầu tư tưởng chỉ đạo và những cách tiếp cận về phương pháp luận. Ngoài ra chủ trương phá sạch đốt sạch cũng đưa đến hậu quả tạo ra một khoảng trống về nhân sự, không có người được đào tạo để thực hiện đổi mới và lãnh đạo đổi mới. Vẫn những quan chức cũ tiếp tục điều hành đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới đó có chủ trương trân trọng văn học miền Nam, nhưng làm sao những người trước đây đã vùi dập, mạt sát nó có thể hiểu và thực sự đề cao nó được? Khoảng trống đó cũng ảnh hưởng đến những quốc gia có quan hệ văn hoá với Việt Nam, chẳng hạn như nước Pháp. Vì giao lưu văn hoá bị gián đoạn nên nước Pháp không có điều kiện đào tạo những nhà Việt học trong khoảng hai ba chục năm liền. Đến thời Việt Nam mở cửa, Pháp chỉ có sẵn những người đã từng hoạt động ở Miền Nam trước 1975, chỉ có thể nghiên cứu giảng dạy về lịch sử văn học chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc. Còn phải đợi nhiều năm nữa mới có thể đào tạo một thế hệ những nhà nghiên cứu Pháp am hiểu chữ nôm, chữ nho, Phật học, Nho học… Tôi được biết, người ta đang hy vọng sẽ có trong tương lai gần đây, những nhà nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam xuất thân từ các trường đại học Âu Mỹ. Họ mới chỉ là số ít tiếp xúc được với văn học, văn hoá Việt Nam. Đa số lớp trẻ hơn hấp thụ những kiến thức khoa học hiện đại về những lối tiếp cận văn học, sử học, xã hội học. Chỉ thiếu liên hệ với thực tế Việt Nam. Tôi thật ngỡ ngàng khi đọc những bộ sách giáo khoa về các ngành khoa học xã hội mà con em chúng ta học ở các lớp cuối trung học và đầu đại học, vì tôi có thể tìm thấy những giải đáp cho những thắc mắc mà tôi vất vả tìm đọc tại những nơi khác. Ngoài ra, đọc các luận văn của các con cháu, tôi thấy con em chúng ta đã liên hệ thật trung thực những kiến thức lý luận với thực tiễn Âu Mỹ. Do đó, thật cần thiết giúp đỡ con em chúng ta tiếp cận văn hoá Việt Nam không chỉ thời hiện đại mà có thể cả những thời kỳ trước kia. Chắc chắn khi ấy con em chúng ta sẽ có thể đưa ra những lối tiếp cận văn hoá Việt Nam mới mẻ và độc đáo, lại mang tính khoa học. Lúc đó chúng ta sẽ có một đội ngũ đông đảo những nhà Việt học được đào tạo đến nơi đến chốn tại Tây phương, từ trong nước gửi ra du học và tại chỗ. Họ không có gì để chia rẽ với nhau, và chỉ có một đồng thuận làm sao đua nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam lên trình độ quốc tế. Muốn cho con em chúng ta lưu ý đến văn hoá, văn học Việt Nam, những bậc đàn anh đã làm văn hoá văn học trước hết phải cho con em chúng ta không phải chỉ biết kính trọng vì tuổi tác mà còn kính phục về kiến thức và tư cách. Người ta thường nói người tài giỏi chỉ hữu ích cho đời phần nửa đời trước, còn nửa đời sau chỉ làm hại vì cung cách sống lâu lên lão làng, lão hoá. Muốn tránh lão hoá, cần khiêm tốn nhìn nhận những thiếu sót, ảo tưởng của mình, và trân trọng người trẻ ngay cả khi họ bày tỏ một thái độ bất kính. Vì sự kính trọng đích thực lại bắt đầu từ thái độ bất kính. Và từ chỗ bất kính tiến đến sự kính trọng, là cả hai bên đã trải qua một quá trình thử thách Thế hệ già phải nhìn nhận những nhược điểm của mình, nếu cần, rút lui đúng chỗ, để thế hệ trẻ tiếp tục con đường; thế hệ trẻ cũng phải thắng những kiêu căng cường điệu của tuổi trẻ để tìm hiểu những kinh nghiệm của người đi truớc, và từ đó làm điểm tựa để tiến tới tương lai. Tháng 1-2/2003 Nguyễn Văn Trung © Thông Luận 2007 Chú thích [1] Tolle lege bắt nguồn từ sự tích thánh Ôgustinô, đứa con hoang đàng, trong lúc giao động, tưởng như nghe tiếng gọi thúc giục cầm đọc đoạn Thánh Thư của Phao lồ khuyên từ bỏ thú vui trác táng. Thánh nhân đã đọc và quyết định trở lại đạo. [2] Võ Phiến, Văn-học miền Nam, tổng-quan Cali nxb. Văn Nghệ, in lần thứ hai, 1986, trang 193. [3] Tài liệu Võ Phiến tại Đại học Paris bài của Mai Chi, do Đặng Tiến gửi Tại Đại học Paris 3, Sorbonne Nouvelle, ngày 9-10-2001, bà Trương Thị Liễu đã bảo vệ thành công luận án Tiến si văn học đối chiếu với đề tài Võ Phiến, Văn hoá dân tộc và văn học Phương Tây, do các ông DH. Pageaux, giáo sư đại học Paris 3 và Đặng Tiến, giảng viên Đại học Paris 7 điều khiển. Ngoài ra ban giám khảo còn gồm có các giáo sư J. Bessière, Paris 8, chủ khảo, giáo sư Trịnh Văn Thảo, Provence Aix-Marseille 1, và J. Dugast, Rennes 2, phụ khảo. Luận án công phu và nghiêm túc gồm phần luận văn 400 trang và phụ lục, 200 trang, trình bày thư mục, chú giải và dịch thuật 4 truyện ngắn. Phần lý luận giới thiệu thân thế và toàn bộ tác phẩm Võ Phiến, nhấn mạnh vào những truyện huyền ảo Fantastique. Phần 2, phân tích ảnh hưởng văn chương phuong Tây, từ S. Maugham đến D. Buzzaty, M. Butor. Và đặc biệt trong khoảng 100 trang cuối, tác giả đã đề xuất những giao thoa với tác phẩm M. Proust Những chủ đề, kỹ thuật kể chuyện, phương pháp dự tưởng như phản ánh huyền thoại Orphée… Các giám khảo thừa nhận công sức lao động và công lao khai phá, mở đuờng cho văn học đối chiếu vào một mảnh đất còn là một hoang địa là văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài ra , tác giả còn khôi phục một thời kỳ văn học bất hành, dưới một chế độ chính trị phôi pha tại miền Nam từ 1954 đến 1975. Hai mươi năm trong văn học lịch sử thế giới có là bao. Công trình bà Liễu gian nan Từ việc truy lùng tài liệu đến xử lý văn bản đọc Võ Phiến và Proust không phải đon giản. Sau đó là phần lập thuyết và lập ngôn. Một ví dụ cụ thể, có giám khảo đã nhận xét dịch Đông Kinh Nghia Thục ra là Institut du Tonkin là tùy tiện, trả lời dịch theo Nguyễn Khắc Viện. Một giám khảo khác cho biết lối dịch này phổ biến ít nhất là từ Jean Chesneaux 1955. Nhóm ngoại văn ở Hà Nội dịch École de la juste cause, không biết dựa vào đâu. Tư liệu về Đông Kinh Nghĩa Thục thì nhiều, nhưng không ai chịu khó giải thích “Đông Kinh” nghĩa là gì, trừ Nguyễn Hiến Lê, trong một cuốn sách khó kiếm 1956. Mới đây, truờng Viễn Đông Bác Cổ kết hợp với nhà xuất bản Văn Hóa có ấn hành một cuốn thơ văn Đông Kinh Nghĩa Thục, dịch ra tiếng Pháp là Prose et Poésies de l’école Đông Kinh 1997. Tóm lại, bên cạnh những chi tiết có thể bàn lại, công trình của bà Trương Thị Liễu ngoài tính cách khoa bảng, còn có tác dụng giới thiệu, khai phá và đóng góp. Hội đồng đã đồng thanh cấp danh vị Tiến si hạng Tối ưu với lời khen Mention très honorable avec Félicitations du Jury. Giáo sư Pageaux đã đề nghị tác giả thu gọn luận văn thành 200 trang để có thể xuất bản trong loại sách Tương Lai của Quá khứ Avenir du passé của nhà xuất bản L’Harmatan, Paris . Mai Chi. [4] Công trình sưu tầm biên tập về văn học miền Nam 1955-1975 sẽ cần được thực hiện bằng cách giới thiệu các tạp chí, vì hầu hết các tác giả đều có bài đăng trong tạp chí, không bị kiểm duyệt, trong khi ra sách phải qua kiểm duyệt, cho nên có tình trạng một số thơ, văn chỉ thấy xuất hiện trên tạp chí mà thôi. - Các tạp chí sẽ được giới thiệu toàn tập, nếu chỉ có dưới 10 số, như Thế Kỷ XX, Hiện Đại, và tuyển tập nếu có nhiều số. - Việc giới thiệu tạp chí sẽ do chính chủ nhiệm, chủ bút – nếu còn sống – làm; còn các bài sẽ do chính tác giả lựa chọn, đề nghị. Trường hợp các tác giả đã qua đời, sẽ do bạn bè họ làm. Các tác giả được yêu cầu cung cấp một tiểu sử ngắn gọn, với danh sách đầy đủ các tác phẩm, ghi chú nhà xuất bản, nơi và năm xuất bản. Ban chủ trương sẽ chỉ giới thiệu hoàn cảnh qui định sự xuất hiện và ngừng hoạt động của các tạp chí, không làm việc phê bình, giới thiệu tất cả các tạp chí và tác giả, không phân biệt xu hướng văn hóa và chính trị. Buổi đầu, thiết tưởng cần giới thiệu những tạp chí sau đây Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ XX, Hiện Đại, Văn Nghệ, Văn, Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày, Nghiên Cứu Văn Học. Văn bản do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh đánh máy theo bản viết tay của tác giả và gửi cho Văn Việt. Bài cũng đã đăng ngày 04/09/2007, trang web Thông Luận. Comments are closed.
Đã bao giờ bạn nhìn lại những hành trình năm bạn đã từng đi qua hay chưa. Những chặng đường đầy khó khăn thử thách mà bạn đã từng đi qua nó khiến cho bạn cảm thấy như thế nào về nó. Bạn đã bao giờ tự nói với mình rằng tại sao những cái khó khăn thử thách đấu với mình khó như vậy mà bản thân mình lại vượt qua một cách nhanh chóng đến như vậy. Đôi khi khó khăn thử thách nó không là gì khó đối với chúng ta khi chúng ta biết kiên nhẫn, biết cách để vượt qua nó thì chắc chắn sự thành công nào cũng sẽ đến với bạn và may mắn luôn luôn mỉm cười với chúng ta. Và nếu như bạn đang và có ý định là sẽ bỏ cuộc, bỏ đi cái ước mơ của mình đang sắp thực hiện thành công thì hãy ngồi lại và tự suy nghĩ và nhìn lại cái chặng đường mà bạn đã đi qua thử từ lúc bắt đầu thì bạn đã nỗ lực như thế nào, đã kiên trì như thế nào để đi đến được ngày hôm nay và tới ngày hôm nay thì bạn lại muốn bỏ cuộc vì không thể nào bước tiếp được. Nếu như chúng ta đã đam mê thì không có một lý do nào có thể cản chúng ta thực hiện được cái đam mê của mình, tuổi trẻ chúng ta còn rất là dài cho nên chúng ta phải nỗ lực hết mình khi còn có thể, bởi vì sau này khi chúng ta già đi nhìn lại những cái quãng đường mà mình đã đi qua trong những cái thời gian khó khăn như vậy, thì chúng ta sẽ tự cảm thấy tự hào về mình vô cùng. Sau này chúng ta có con cháu thì sẽ kể lại cho con cháu nghe về cái sự cố gắng của bản thân trong cái thời thanh xuân của tuổi trẻ. Lúc đó con cháu của bạn sẽ ngưỡng mộ cái tinh thần kiên cường của bạn và tụi nhỏ sẽ học hỏi theo những gì mà bạn đã làm, có phải lúc đó chúng ta cảm thấy hạnh phúc hơn hay bao giờ thấy khó khăn mà vội bỏ cuộc như vậy, bởi vì chúng ta đã từng trải qua nhiều cái thử thách khó khăn giống như vậy, những lúc đó chúng ta đâu có nản lòng và bỏ cuộc vậy bây giờ chúng ta sao dễ bỏ cuộc như vậy có đúng không. Hãy hết mình vì nó, luôn trải nghiệm và đừng bỏ phí bất kỳ điều gì nhé.
Nguyễn Văn Trung Tha thứ và xin tha thứ “… Tha thứ và xin tha thứ quả thật rất khó, không đơn giản chút nào vì tha thứ và được tha thứ không phải chỉ là trả một món nợ mà chính là phục hồi một quá khứ …” Phạm Đỉnh Song song với cuộc thảo luận lớn về chặng đường đi tới ngày mai dân chủ mà Thông Luận mở ra từ tháng 12/2006 đến nay, và vẫn còn đang tiếp tục, hôm nay chúng tôi xin gửi đến bạn đọc loạt bài có tên chung là “Nhìn lại những chặng đường đã qua” của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Đây là một loạt nhiều bài rời nhau nhưng có chung một chủ đích tác giả nhìn lại một số sự kiện trong suốt thời gian hơn bốn thập niên cầm bút. Ông không xem đây là những chương rời của một tập kí hay hồi kí như thường thấy, mặc dù loạt bài này có nội dung là nhìn lại những chặng đường của một hành trình trí thức miền Nam. Tuy vậy, như bạn đọc sẽ có dịp theo dõi, những bài viết này không có chủ ý thuần kể lại những chuyện xưa, mà cốt yếu là từ những chuyện xưa đó tác giả xuôi dòng suy ngẫm để nhìn nhận lại những gì là giá trị, là cốt lõi của một khung cảnh văn hoá, ở đây là khung cảnh văn hoá xã hội miền Nam qua hai chế độ cộng hoà I và II, sau đó là thời kì dưới chế độ độc tài toàn trị. Ở điểm này, những dòng hồi niệm của giáo sư Nguyễn Văn Trung sẽ có nhiều ý nghĩa đối với thế hệ trí thức trẻ trong nước. Họ lớn lên trong một hoàn cảnh khá đặc biệt những gì là những nét đẹp của văn hoá xã hội miền Nam trong thời chia cắt 1954-1975 hầu như bị cố tình khuất lấp, như thể là nó không có mặt. Bộ máy tuyên truyền của nhà nước toàn trị đã rất thành công trong việc xoá bỏ mất dấu những gì là giá trị của một thời kì mà xã hội và văn hoá Miền Nam đã có được điều kiện phát triển, dù chưa đến mức phong phú tuyệt hảo nhưng cũng đạt được những thành tựu đáng tự hào. Trong khung cảnh văn hoá miền Nam sau 1954, Nguyễn Văn Trung đã có đầy đủ điều kiện cho cuộc bay bổng sự nghiệp. Hơn bốn thập niên cầm bút của người trí thức dấn thân Nguyễn Văn Trung đã được chính ông nhìn nhận lại là “Không có Việt Nam Cộng Hoà, không có Nguyễn Văn Trung hay sự nghiệp văn hóa của một người trí thức cầm bút”. Có điều là Nguyễn Văn Trung không hề có ý hướng hoài niệm, thậm chí trú ẩn trong quá khứ. Không hề có thái độ vướng mắc như thế trong dòng suy ngẫm của ông. Nếu có một lời nhắn lại chăng thì có thể Nguyễn Văn Trung chỉ muốn gửi đến các bạn trí thức trẻ hôm nay lời gửi lại như thế này “tôi tìm hiểu thời đại của tôi và gửi cho những người đương thời cùng tuổi hay trẻ hơn nhằm đóng góp phần của mình tiến tới một cái nhìn phong phú, sâu xa và khách quan hơn về thời đại của chúng ta, vì, nói theo một ý của Sartre, thời đại hiện tại xấu hay tốt, vinh quang hay khốn nạn cũng là thời đại của chúng ta, và chúng ta không có thời đại nào khác. Do đó chúng ta chỉ có bổn phận sống cho trọn vẹn thời đại chúng ta, vinh quang thì cố giữ lại chia sẻ, oán thù thì cố xoá bỏ”. Thông Luận trân trọng gửi đến bạn đọc lẵng hoa “Nhìn lại…”, xem như những chứng tích hiếm hoi còn lại do một người chứng đương thời của một thời kì trăm hoa đua nở đã thực sự có mặt trên phần đất nước bị chia cắt. Một hiện thực rất gần gũi như thế mà chừng như đã xa xăm lắm rồi, chỉ vì những đám mây mù của thế kỉ đã cố tình che khuất nó đi. I Tha thứ và xin tha thứ Hồi 1988, trong khung cảnh chính sách đổi mới, tôi viết một bài dài khoảng 20 trang “Nhìn lại những chặng đường đã qua” theo đề nghị của tạp chí Nghiên Cứu Việt Nam Études vietnamiennes, nhà xuất bản Ngoại Văn ở Hà Nội, lúc đó do ông Nguyễn Khắc Viện phụ trách, nhưng không biết tại sao đã không được đăng. Bước vào năm 2000, tôi đã 70 tuổi. Nhiều người đề nghị tôi “nhìn lại những chặng đường tôi đã đi qua”. Tôi thấy tôi phải đáp lại yêu cầu này và vẫn giữ tinh thần, thái độ như đã bày tỏ trong bài viết hồi 1988 ở Saigon. Trước tiên, xin ghi lại mấy đoạn chính sau đây trong bài viết cũ vừa kể “Thực tế đất nước hiện nay đã quá rõ để cho tôi và mọi người Việt Nam quay nhìn lại quá khứ gần đây, thấy được những ảo tưởng, sai lầm của mình bất cứ ở xu hướng nào hay từ sự lựa chọn nào”… Nếu chính tôi bây giờ mới hiểu những ảo tưởng của mình, của cả nước liên quan đến những lựa chọn căn bản về những mục tiêu chính Độc lập, tự do, thống nhất, phát triển vào những khúc ngoặt lịch sử của dân tộc như 1945, 1955, 1975, làm sao tôi có thể phê phán đổ lỗi cho người khác với thái độ an tâm, coi sai trái là ở nơi người khác, nhất là ở những kẻ cầm quyền? Trong hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của ông Đỗ Mậu mà tôi chỉ được đọc qua bài giới thiệu trong tạp chí Đất Việt của Hội Việt Kiều Canada, tháng Mười năm 1987, ông Đỗ Mậu đã khẳng định thảm kịch ở Việt Nam bắt nguồn từ sự chém giết sống mái của cộng sản quốc tế và công giáo quốc tế trên thân xác đại đa số nhân dân Việt Nam. Đặc biệt ông phê phán gay gắt chế độ ông Diệm. Riêng tôi, Đức Cha Nguyễn Văn Bình, cha Trần Hữu Thanh, ông đã tách ra. Tôi không dám nhận vinh hạnh được tách rời ra đó. Điều tôi muốn thưa với ông Đỗ Mậu là nếu đại đa số nhân dân Việt Nam kia và chính ông Đỗ Mậu không ủng hộ một trong hai nhóm thiểu số thì đâu có cuộc đẫm máu như trên? Ở trong nước, hiện cũng có xu hướng phê phán kết tội cấp lãnh đạo như thể chỉ họ gây ra thực tế hiện nay. Thế thì những người đã theo cách mạng, thậm chí đảng viên, giữ nhiều chức vụ cao thấp trong guồng máy này, không có trách nhiệm gì sao về những sai lầm của cấp lãnh đạo mà bây giờ về hưu hay mất quyền, mới lên tiếng phê phán, đổ tội cho người khác? Tôi nghĩ rằng tình hình thực tế như bây giờ, một phần dân chúng sống bằng ăn xin và ăn xin cả những người đã buộc phải bỏ nước ra đi, tất cả chúng ta đã bị lột trần, không ai còn nhân danh gì được để phê phán kết án người khác với bàn tay sạch… Như vậy, mọi phê phán theo tinh thần đổ tại người khác chỉ gây thêm phân hoá chia rẽ và do đó đưa đất nước này đến chỗ suy sụp trầm trọng hơn nữa mà thôi. Trái lại nên chịu khó ngồi lại với nhau, không phải để phê phán, hoặc chỉ để phản ánh cái tiêu cực, mà để cùng nhau tìm hiểu tại sao đất nước lại đi tới tình hình hiện nay, tìm hiểu những điều kiện nguyên nhân khách quan nào đã quy định chi phối những lựa chọn căn bản có tính chiến lược lâu dài mà bây giờ mới thấy là sai lầm… Vấn đề không phải là ai thắng ai, mà là tại sao miền Bắc đã thắng, miền Nam đã thua, và rút cục tại sao tất cả đều thua và thua chính mình. Hoặc nói cách khác, miền Bắc đã giải phóng miền Nam, nhưng xét về mặt nhận thức, sau mười ba năm, có thể nói việc giải phóng miền Nam về quân sự chính trị đã giải phóng cả miền Bắc và miền Nam về mặt nhận thức. Con đường đưa đất nước này đứng dậy, đi lên, khỏi sa xuống vực thẳm, để trút bỏ niềm tủi nhục mà mọi người đều cảm nhận khi xem tivi Thế Vận Hội Séoul 88 là trước hết nhận ra được những nguyên nhân khách quan nào đã đưa dân tộc đến thảm cảnh hiện nay. Việc tìm hiểu giải thích một cách khoa học này không đưa đến phê phán, kết án mà chỉ đưa đến một cảm nhận với niềm thông cảm và liên đới trách nhiệm.” Sau hơn 10 năm, hiện tượng phê phán tố cáo người khác, không phải thuộc phe địch mà thuộc phe “ta”, trong nội bộ, không những không suy giảm mà còn gia tăng đến mức những người lãnh đạo cao cấp nhất, tố cáo nhau qua những tài liệu được viết ra dưới dạng hồi ký như của ông Trần Quỳnh đề cao các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và tố cáo mạt sát ông Võ Nguyên Giáp. Ông Giáp vẫn giữ im lặng. Nhưng có đàn em của ông lên tiếng đáp lại. Đây là những chuyện thuộc thâm cung bí sử cơ mật trong BCTTUĐ mà kẻ nào tiết lộ là vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng. Ông Trần Quỳnh chắc hẳn biết rõ điều đó, nhưng ông thấy cần tiết lộ chuyện nội bộ để cho “các thế hệ mai sau một ít tư liệu hiểu đúng lịch sử cha ông họ”. Những tài liệu này cũng như những tài liệu khác của ông Bảy Trấn, Trần Độ, đều được phổ biến rộng rãi ở hải ngoại. Trước khi tôi ra nước ngoài, một người bạn đi thăm con ở Mỹ về cho biết tôi sang bên đó sẽ được nghe, đọc những gì bẩn nhất của miền Nam trước 75 được phơi bày qua sách báo hải ngoại. Tôi có cảm tưởng giới trẻ ít quan tâm những sách báo tố cáo chụp mũ lẫn nhau này. Nhưng những người có liên hệ gia đình với các đối tượng chỉ trích hay bị chỉ trích, không thể không tìm hiểu đâu là sự thực trong các tài liệu sách báo in ra, hoặc không thể không thắc mắc trước những vụ xuống đường, tuần hành mà họ chứng kiền, như vụ Trần Trường ở California. Họ nghĩ gì về tư cách của cha anh họ, những thế hệ đã liên hệ trực tiếp đến các biến cố, sự kiện được nêu trên? Họ có kính trọng không hay chỉ kính vì là đàn anh, cha mẹ hoặc lứa tuổi với cha mẹ, chú bác họ mà không trọng, không phục? Một số sinh viên Evergreen College, San Jose đã lên tiếng thắc mắc, phàn nàn về những vụ tố cáo, đả đảo loạn xạ trong cộng đồng “Quí vị biểu tình chống ca sĩ Thanh Lan được cộng sản Việt Nam cho qua Mỹ để giao lưu văn hoá” cho cộng sản; Chống Nguyễn Ngọc Linh, chống Thời Báo của Vũ Đình Nghi bị chụp mũ thân cộng; biểu tình trước chùa Đức Viên và xâm nhập vào chùa lục soát tìm TT Thích Trí Dũng 93 tuổi, biểu tình chống Đại Nhạc Hội Dạ vũ hè 98 mà Nguyễn Ngọc Ngạn làm MC”. Theo Thời báo số 2439, Thứ Bảy, Chủ Nhật 09,10-01-1999 San Jose “Qua hình thức biểu tình với danh nghĩa chống cộng tự coi là người Quốc gia chân chính, mà lại cầm cái mũ cộng sản đi chụp các người khác. Nhiều trí thức trẻ đã quyết định về Việt Nam tìm hiểu tại chỗ như Nguyễn Tú Minh 22 tuổi cùng người chị ở California về thăm Việt Nam xem mục “Thời sự đặc biệt về quốc nội”, Thời Báo Canada, số 532 ngày 10-03-2000. Hoặc giả một Phan Trần Hiếu đã chứng kiến những vụ biểu tình chống Trần Văn Trường treo cổ cộng sản và bích chương HCM trong tiệm phim của mình với tư cách nhà báo của tờ The Orange Country Register, trở về Việt Nam tìm hiểu nguồn gốc gia đình mình, gia đình Trần Trường về Hoa Kỳ viết báo, in thành sách bằng tiếng Anh và tiếng Việt 230 trang” Theo Phan Trần Hiếu, Cội Nguồn Bất An, Roots of Unrest, xuất bản tại Hoa Kỳ 1999. Còn giới trẻ trong nước như Thịnh Lê, 24 tuổi cho biết 80% người ở lứa tuổi anh không biết ý nghĩa của các tên đường mang danh những nhân vật cách mạng, nhưng lại biết rõ về các ca sĩ Mỹ như Madonna, Michael Jackson… “Chúng tôi không thể được phân tích theo một điều gì đó – ý thức hệ hay tôn giáo, tinh thần yêu nước. Trước đây người ta coi trọng chính trị hoặc là theo hay chống cộng, theo hay chống thực dân. Ngày nay chúng tôi đã trở thành cá nhân hoá… giống như giới trẻ ở Mỹ, chỉ có thể coi những thành quả kinh tế hoặc lối sống là quan trọng. “Chúng tôi chẳng màng chú ý tới chính trị và các chính trị gia”, Thời Báo Canada số 514 ngày 5-11-99. Tuy nhiên cũng có những người trẻ thắc mắc lưu ý đến chính trị, đặc biệt thời kỳ Đệ I Cộng Hòa, chẳng hạn về ông Diệm, các bạn đặt câu hỏi có phải ông Diệm là người yêu nước chân chính không? và chế độ ông đứng đầu có phải chỉ là bù nhìn Mỹ dựng nên không? Xem Người Việt Daily News OnLine 15-11-1997. Tài liệu cho thấy những lý lẽ của những đàn anh hoặc bài bác hoặc ca tụng ông Diệm; vậy đâu là sự thực? Đọc những sách báo, một số trí thức đã sinh ra trước hay sau 75 trở về Việt Nam, ai cũng thấy mình tìm lại được “quê cha đất tổ” và gắn bó với quê hương trước đây xa lạ một cách thật gần gũi, thắm thiết, thậm chí yêu thích cả tiếng Việt mà họ chỉ biết nói bập bẹ, nhưng còn thực tế Việt Nam, quá khứ và hiện tại trong nước, ngoài nước, quả thật họ mới đã chỉ biết nêu lên những thắc mắc. Việt Nam bây giờ có đến năm thực tại. thực tại Việt Nam của những người ở trong nước nhìn tình hình trong nước theo diễn tiến của nó từ 1975 đến nay qua nhiều thay đổi. Thực tại Việt Nam của cộng đồng hải ngoại nhìn cộng đồng cũng theo diễn tiến những thay đổi từ 75 đến nay. thực tại Việt Nam ở hải ngoại theo người trong nước tưởng tượng. Thực tại Việt Nam nội địa theo người ở hải ngoại tưởng tượng là thật và sau cùng thực tại Việt Nam của người ngoại quốc nhìn Việt Nam theo quan điểm, quyền lợi của họ. Những người trí thức trẻ lớn lên trưởng thành ở hải ngoại thấy khó hiểu được sự thực chế độ miền Nam trước 75 của cha anh họ, vì một số những người thuộc thế hệ cha anh họ đã bôi nhọ, bôi đen quá khứ đó bằng những tố cáo, vu khống, chụp mũ nhau đôi khi thật thô bỉ hạ cấp. Sách báo, phim ảnh, thậm chí cả sách giáo khoa của nước họ định cư cũng đầy dẫy xuyên tạc, thiên vị bất công vô tình hay cố ý vì có những ký giả, nhà biên khảo ngoại quốc nổi tiếng gây được sự nghiệp nhờ thành tích phản ánh một giai đoạn thời cuộc Việt Nam; nay họ không dám tỏ ra hối tiếc, can đảm nhìn nhận những sai trái, những ảo tưởng của mình về giai đoạn đó để bảo vệ sự nghiệp của mình. Thực ra, không thể trách người nước ngoài có những cái nhìn thiên lệch về Việt Nam, đặc biệt về chế độ miền Nam trước 75; vì chính những người Việt Nam hải ngoại, đáng lẽ phải làm chứng sự thực cho nó, thì hành động hay cách hành động của họ lại chỉ có tác dụng biện minh thêm những cái nhìn thiên kiến, thiên vị của người ngoại quốc. Về Việt Nam, tìm hiểu tại chỗ, những trí thức trẻ của cộng đồng ở hải ngoại cũng khó nhận diện chế độ miền Nam của cha anh họ, vì chế độ này không còn hoặc chế độ hiện hành đã lật đổ nó, làm cho cha anh họ bỏ nước ra đi, cũng đã và đang tự thay đổi. Nhưng nếu họ tiếp xúc được với những người của chế độ hiện nay đã thay đổi là lối nhìn xác tín của mình như Phan Trần Hiếu thuật lại trong cuốn sách của anh, thì quả thật những tiếp xúc đó đã giúp họ hiểu được một cách trung thực hơn đôi chút thực tế của miền Nam trước 75 và của chế độ hiện nay qua diễn tiến của nó từ 75 đến bây giờ. Việc đi “thực tế” tại chỗ, ngay tại quê hương Việt Nam như Phan Trần Hiếu đã làm cho họ điều kiện nhận ra tư thế của họ và những ước mơ họ mong muốn “Chúng tôi đứng mỗi chân trên một thế giới, chúng tôi có hai căn cước. Trong khi chuyền tay ngọn đuốc tự do, phải chăng chúng tôi đã có đủ tầm nhìn để vinh danh quá khứ và chào đón tương lai? Ai sẽ tạo được sự thống nhất mà người Việt Nam luôn luôn mong mỏi nhưng chưa bao giờ đạt đến? tr. 225 Sau cùng Phan Trần Hiếu nêu lại tám câu hỏi gửi người đọc suy nghĩ và giải đáp cho anh, cho thế hệ giới trẻ của anh. Chẳng hạn 1. Về sự hận thù thân mẫu của tác giả có ý kiến nặng nề về người nhà buôn Trần Trường đã là mục tiêu của những cuộc chống đối ở Wesminster “Đừng thương hại hắn sau khi con gặp gia đình hắn”. Bà cảnh giác con trai mình. Bạn có nghĩ đó là một lời khuyên không? Người Việt có nhìn thấy hoàn cảnh một cách sáng suốt, hay anh ta ngây thơ? 2. Về tha thứ Người lính Việt Cộng tặng một món quà cho thân mẫu người viết. Anh ta nói cuộc đời cực nhọc của mình đã giúp anh ta hiểu được nỗi đau khổ của bà. Nếu bạn là bà mẹ, bạn có nhận món quà của anh ta không? 3. Đổi thay Nhiều người trốn chạy cộng sản chỉ nhớ Việt Nam như lúc mà họ ra đi thôi. Nếu họ trở lại bây giờ, liệu họ có thể nào thấy được đất nước đã thay đổi ra sao? Bằng cách nào tác giả đã có thể vượt lên trên những định kiến về Việt Nam? Người ta thay đổi thái độ ra sao?” Ông bạn chủ nhiệm một tạp chí hàng tháng đưa cho tôi coi cuốn sách Cội nguồn bất an của Phan Trần Hiếu và nói với tôi chúng ta có trách nhiệm với người trẻ này. Sau khi đọc xong, tôi cũng nghĩ như vậy. Trong bài viết hồi 1988 “Nhìn lại những chặng đường đã qua” tôi đã ghi “chế độ mà tôi đang sống trong đây tôi tránh dùng từ cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa vì không khoa học, chế độ này được thiết lập ở miền Bắc từ 1945-1975. Tôi không có trách nhiệm gì về việc đó, Nhưng chế độ trên được thiết lập ở miền Nam từ 1975, thì tôi nhìn nhận có phần trách nhiệm của mình, vì những điều tôi nói, viết, làm đã đưa một số người đi theo cách mạng và một số người khác không đi theo cũng có thái độ chấp nhận ở lại. Sau 1975 tôi thường nghe họ trách “vì Thầy/vì Anh mà tôi ở lại…” * ** Sau đảo chính 1963, tình hình miền Nam xáo trộn, không ai có thể thờ ơ với những vấn đề chính trị. GS Trần Ngọc Ninh, GS Ngô Gia Hy và tôi ra tờ Tìm Hiểu in ronéo. Nhưng không bao lâu tôi thấy phải ra khỏi giới giáo sư đại học, tập hợp nhiều người cầm bút trẻ, kể cả những người làm thơ, viết tiểu thuyết. Chúng tôi ra tập san Hành Trình vừa phân tách thời cuộc, vừa có những sáng tác thơ văn phản ảnh những suy tư, thái độ nhận thức… Tạp chí đưa ra khẩu hiệu Làm cách mạng xã hội không cộng sản. Lối nhìn này tác động vào những người chống cộng ngay cả trong quân đội. Tướng Lê Nguyên Khang biên thư cho tôi bầy tỏ tán thành đường lối của Tạp Chí vì “không thể giải quyết chiến tranh này chỉ bằng súng đạn”. Tạp chí giải thích những kinh nghiệm quân đội làm cách mạng như đang thấy ở Phi Châu, Nam Mỹ, đặc biệt giới thiệu Nasser đã làm nảy nở nơi các tướng tá trẻ ước muốn quân đội làm cách mạng xã hội. Thế Uyên, nhà văn, có tham gia viết bài trong Hành Trình, về sau ông đứng ra điều hành tạp chí Thái Độ sau khi Hành Trình ngừng xuất bản, cổ võ cho xu hướng kể trên. Nhưng những cố gắng suy nghĩ cụ thể mà tôi đã đóng góp sau Hành Trình rồi Đất Nước là kế hoạch “Xây Dựng Nông Thôn” của Đại Tá Nguyễn Văn Bé, một người kháng chiến cũ. Chúng tôi thành lập một nhóm thân hữu làm việc suy nghĩ lý luận, gặp nhau ở Saigon hay ra Vũng Tầu “tại bản doanh” của Đại Tá Bé. Tôi ghi và viết ra một tập nhan đề “Những lựa chọn căn bản” phân tách thực tế xã hội miền Nam, những phương hướng cơ bản xây dựng miền Nam, tạo điều kiện thống nhất, những phương thức thực hiện cụ thể… Hiệu quả của kế hoạch bình định, xây dựng nông thôn sau 75 được tướng Lansdale ghi lại trong một cuốn sách ông viết đại ý như sau “ông lái xe jeep chở mấy vị dân sự cấp đại sứ, lãnh sự ban đêm ở một vùng nông thôn miền Trung, xe bị chặn lại hỏi giấy tờ, nhưng không phải là mà là cán bộ áo đen Xây Dựng Nông Thôn, và như vậy đánh tan huyền thoại nông thôn quốc gia ban ngày, VC ban đêm. Nhưng những thành quả đó đã không thay đổi được diễn tiến của thời cuộc. Chiều tối 30-04-75 Đại Tá Bé đến tôi. Chúng tôi đứng ngoài balcon cư xá tôi ở nhìn ngắm phố xá Saigon đang đổi chủ mà không bình luận gì, sau đó tôi nói “Đại Tá nên đi ra nước ngoài.” Ít năm sau, tôi nghe tin ông vượt biên bằng đường biển, rồi qua đời ở Mỹ.” Quan điểm của Hành Trình cũng tác động vào giới trẻ trí thức, sinh viên ở các đô thị, tạo ý thức về nhu cầu làm cách mạng xã hội không thể không làm cách mạng xã hội, nhưng theo họ chỉ có cách mạng xã hội cộng sản, không thể có cách mạng xã hội không cộng sản và do đó họ ra Khu hay gia nhập các tổ chức tranh đấu nằm vùng của cộng sản, phê phán công khai trên sách báo của họ về tính cách ảo tưởng của lập trường cách mạng xã hội không cộng sản, nhưng vẫn phải thừa nhận như Lữ Phương đã làm Hành Trình đã là chất xúc tác chính đưa họ vào con đường cộng sản. Dưới đây là một đoạn khác tôi viết trong “Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua” năm 1988 vừa nhắc ở trên “Trí thức ở đô thị không thể bằng lòng với mục tiêu giải phóng dân tộc được đề ra, họ muốn thấy xa hơn nữa, do đó không thể không nói đến cách mạng. Tôi đã nói về cách mạng một cách công khai trên sách báo hợp pháp hay không hợp pháp để đáp lại đòi hỏi trên của họ. Tôi đã trình bày và phê phán một cách nghiêm chỉnh theo sự hiểu biết của tôi lúc đó. Những điều tôi viết có thể đúng, có thể sai, nhưng đều xuất phát từ sự chân thành, thẳng thắn, và chỉ muốn tìm hiểu sự thực trong tinh thần tôn trọng người nghe, người đọc, không áp đặt bằng bất cứ quyền lực nào, kể cả quyền lực của người thày giáo, nhằm gợi ý, thúc đẩy họ suy nghĩ và phê phán. Trong hoàn cảnh miền Nam hồi đó, ở các đô thị, lựa chọn đi theo cách mạng hay có một thái độ trí thức đối với cách mạng không phải dễ, nhất là đối với những người không có truyền thống gia đình làm cách mạng cha ông làm cách mạng, thì con, cháu đi theo. Trái lại nhiều người xuất thân từ những gia đình di cư 1954, như Trần Triệu Luật, Nguyễn Trọng Văn, Thế Nguyên… Họ đã theo cách mạng, không phải vì bị tuyên truyền như người học sinh kể trên [1] cho biết, mà vì tự ý suy nghĩ, phê phán và tự lựa chọn…” Sau năm 1975, tôi gặp lại một số sinh viên cũ đã ra khu, đi Hà Nội hồi 1967, 1968… Họ cho biết thái độ nhận thức của họ đã làm cho những người họ tiếp xúc và ngay chính họ phải ngạc nhiên vì lối nhìn, suy nghĩ rất khác nhau của đôi bên. Với thời gian, họ cũng như tôi và có lẽ tất cả chúng ta những người đang sống trong “chế độ” đều ít nhiều nhận ra là những niềm tin của mình trước kia về con đường đi tới của đất nước chỉ là một ảo tưởng trước thực tế đất nước như hiện nay. Bây giờ những người quen biết, phía bên này hay bên kia đều có những người đã chết, những người còn sống thì dằn vặt day dứt, nghi ngờ về những lựa chọn trước đây của mình và không hiểu được tại sao, chỉ thấy đau xót. Ngay cả những người bạn tôi mới quen từ miền Bắc vào sau 1975 cũng có tâm trạng day dứt đau xót, có những người bạc đầu đã hy sinh gần hết cuộc đời mình, bây giờ cũng tự hỏi cả một đời xả thân cho cách mạng để đi đến tình trạng này sao? Họ cho tôi biết không phải chỉ mình Tố Hữu khóc Staline chết mà cả họ cũng làm thơ, cũng khóc thật chân tình… chỉ sau này mới hiểu.” * * * Những ai nhận ra ảo tưởng, ở phía bên này hay phía bên kia nói chung đều thuộc giới trí thức. Đối với quần chúng, là nạn nhân của thời cuộc, họ chỉ biết cảm nhận và cam chịu một cách âm thầm những hy sinh, mất mát quá lớn. Quá khứ đầy nước mắt và đẫm máu từ 50 năm qua còn đè nặng trên tâm trí họ, như bà mẹ của Phan Trần Hiếu đã biểu lộ. Nhà xã hội học Bungari Lili Deyanova đã viết “Ký ức vùng Balkans này là một chất độc. Ngay cả ở Bungari, phe tả cũng như phe hữu đều có. danh sách những người tử nạn, những vinh nhục. Vùng Balkans có quá nhiều quá khứ để có thể gánh chịu nổi” Tuần báo Nouvel Observateur, 15-21 Aout 1999. Quá khứ trên dưới 50 năm của những người Việt Nam có lẽ cũng vậy. Quả thực ký ức là một chất độc đầu độc và vì thế vấn đề quan trọng hơn cả, cấp bách nhất là cần xác định phải giữ cái gì, phải quên cái gì. Những ai đã giữ một chức vụ, vai trò nào đó trong hành chánh quân sự, sinh hoạt chính trị văn hoá hẳn đều đã nhìn nhận -ít ra trong thâm tâm- những thất bại, ảo tưởng của mình, nhưng ít người chịu nhận trách nhiệm về phần mình khi tìm hiểu những nguyên nhân thất bại, ảo tưởng và thường đổ lỗi cho người khác. Về mặt tâm lý xã hội, trước một số sự kiện có tầm mức rộng lớn liên quan đến số phận của tập thể dân tộc như ngoại bang xâm lược hay chế độ độc tài, đảng trị, những nạn nhân có xu hướng tạo ra những bung xung bouc émissaire ở trong một giới xã hội nào đó đảm nhận vai trò thủ phạm gây nên những thảm bại, tai họa… để cho tất cả người khác có được lương tâm yên hàn…. Về chuyện Thực Dân, có sự kiện đông đảo người Việt Nam không Công giáo, có thể chia rẽ thù địch nhau nhưng lại đồng tình về lối nhìn đối với người Việt Nam công giáo. Ngay cả trí thức làm luận án tiến sĩ bằng tiếng nước ngoài như ông Lê Thành Khôi phê phán nhà Nguyễn thật nghiêm khắc về mọi mặt, trừ chính sách đối với công giáo. Việc cấm đạo, bách hại người công giáo, theo ông, được biện minh như lý do bảo vệ an ninh quốc gia raison d’État. Không thiếu gì những người ngoài công giáo theo Tây, cộng tác với Tây, nhưng chỉ người công giáo mới bị nhắc đến chỉ vì cái tôn giáo họ theo. Bao lâu người không công giáo còn coi người công giáo là vật tế thần, bung xung để che giấu những yếu kém biện minh những bất lực thất bại của mình hay triệt để hơn nữa bao lâu chưa dám nhìn lại mình qua người công giáo xem mình đã Tây hoá, nghĩa là đã Kitô hoá đến mức độ nào. về văn hoá và do đó tố cáo người công giáo là tự phê, tự tố cáo, không thể nói đến hòa hợp hòa giải dân tộc về mặt tín ngưỡng… Ngày nay, từ “cộng sản” được dùng để tố cáo người cộng sản và cả những người không cộng sản, suy nghĩ, hành động khác mình cũng để che giấu biện minh những yếu kém, bất lực, thất bại của mình… Tuy nhiên cũng có một vài tiếng nói của những lãnh tụ đảng phái quốc gia thẳng thắn đề cao những gì là công lao của Việt Minh và không đổ mọi trách nhiệm cho người cộng sản, vì theo các vị này, những lãnh tụ quốc gia cũng phải chịu trách nhiệm về phần mình. Những nhận định như thế có thể tìm thấy thấy trong hồi ký Việt Nam Những Ngày Lịch Sử của ông Nguyễn Tường Bách và Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ xuất bản gần đây ở nước ngoài. Nếu một bên nhìn nhận những lỗi lầm, thiếu sót về phần mình, hành động đó về mặt trí thức, đạo lý, thì điều bắt buộc là phía bên kia cũng phải làm tương tự. Có như vậy mới có thể cùng nhau vượt quá khứ hướng về tương lai. Nhưng nếu có người nhìn nhận lỗi lầm, sai trái về phần mình, lại bị người khác đố kỵ, oán ghét lợi dụng những thú nhận của mình làm một bằng cớ tố cáo kết án mình như một nhóm trí thức mệnh danh Phật giáo ở hải ngoại đã và vẫn còn làm đối với người Công giáo thì quả thật “hết chuyện để nói”! Chia rẽ, oán thù không phải chỉ xảy ra giữa các bên đối nghịch mà còn trong nội bộ một bên, một giới… Gần đây đã có những người lên tiếng tố cáo kết án công khai người đồng đạo, đồng đảng ngay trong giới lãnh đạo cao cấp hơn cả, gây nên những lời qua tiếng lại thật nặng nề… chắc hẳn người đọc là người đồng đạo đồng đảng không đứng về phía nào, không vui thích gì trong khi người ngoài đố kỵ, oán ghét lấy làm hả dạ, cổ võ phổ biến rộng rãi những tố cáo kết án nhau này. Về mặt chính trị, làm chính trị, người ta có thể làm như vậy, nhưng về mặt tư cách, đạo lý thì sao? Nhiều trí thức đã có địa vị sự nghiệp ở nước ngoài, hồi ông Diệm lên cầm quyền năm 1954, về nước giúp ông. Sau một thời gian, thất vọng vì ảo tưởng của mình, đã âm thầm rời bỏ tham gia chính quyền, trở lại Pháp, Hoa Kỳ, và cho đến nay, những thất vọng của họ vẫn “sống để trong bụng, chết mang đi”, không hề thấy những trí thức này lên tiếng phê phán đả kích chế độ ông Diệm. Hồi 1945, đông đảo trí thức ở nước ngoài hoặc trong nước đã theo ông Hồ, theo kháng chiến cũng đã thất vọng, có người bỏ Đảng, nhưng cho đến nay vẫn giữ yên lặng, Phải chăng có thể gọi họ đều là những kẻ hèn nhát? Hay phải nói là vì tự trọng mà họ giữ im lặng? Và phải chăng chỉ những người lên tiếng tố cáo mới can đảm? Nhưng cho dù những người lên tiếng phê phán tố cáo một lý tưởng một chế độ mà trước đây họ đã tin theo, ca tụng, phục vụ và thậm chí đã mạt sát thậm tệ những kẻ chống lại họ đó có nói đôi điều đúng đi nữa, thì những người đã từng nghe họ trước đây xưng tụng làm sao có thể tin những điều họ nói bây giờ như thể họ đã không dính lứu với lý tưởng chế độ họ đã tôn thờ và phục vụ? Nếu bây giờ họ muốn được lắng nghe, trước hết họ cần can đảm khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm, chia sẻ liên đới trách nhiệm với chế độ mà họ phê phán đả kích, như một trí thức Pháp đã theo đảng và sau bỏ đảng viết hồi ký “Quá khứ một ảo tưởng” “Sau cùng, xin có một lời về tác giả, vì bất cứ cuốn sử nào cũng đều là cuốn sử của chính mình. Tôi có một liên hệ về tiểu sử và đề tài mà tôi nói ở đây “Quá khứ một ảo tưởng”. Tôi chỉ việc trở lại những năm tháng tuổi trẻ mà tôi là đảng viên từ 1949 đến 1956 để tìm ra dĩ vãng của một ảo tưởng. Vấn đề mà tôi thử tìm hiểu ngày nay, như vậy, không thể tách rời khỏi đời tôi. Tôi sống trong nội tâm ảo tưởng mà tôi thử nhìn lại chặng đường đã qua vào một trong những thời kỳ ảo tưởng đó được phổ biến rộng rãi hơn cả. Tôi có phải hối tiếc viết lịch sử thời kỳ này không? Tôi không tin như vậy, sau 40 năm, tôi phê phán thời đó tôi mù quáng không chút khoan nhượng nhưng cũng không cay đắng. Không khoan nhượng vì sự thứ lỗi xuất phát từ những ý định tốt, theo tôi, không chuộc lại được sự ngu muội và tự phụ. Cũng không cay đắng vì thái độ dấn thân khốn kiếp đó đã dạy dỗ tôi rất nhiều. Tôi ra khỏi cuộc dấn thân khốn kiếp này mới thấy được phải bắt đầu tra hỏi về say mê cách mạng, và được miễn nhiễm không để bị những ý tưởng mang tính chất tôn giáo giả mạo thâm nhập trong hành động chính trị của mình”. Francois Furet, Le Passé d’une illusion, Essai sur l’ idée communiste au XXe siècle. Lời nói đầu, tr 15-16. Còn những người thuộc tầng lớp cùng đinh trong xã hội binh lính, cu li, trộm cướp đi theo cụ Hồ, cụ Ngô đã được những chế độ đó đưa lên hàng tướng tá bộ trưởng, tổng cục, tổng giám đốc làm sao không kể đến ân tình hiếu nghĩa không phải chỉ trong xã hội Á đông mà xã hội nào ít nhiều cũng cho rằng không thể ăn cháo đái bát, không thể chửi những người, chế độ như thể cha mẹ đã không đẻ ra họ… vì đạo lý không cho phép làm như vậy. Phùng Quán, một nhà thơ nổi tiếng trong nhóm “Nhân Văn-Giai phẩm” đã từng bị Đảng đầy đọa, hành hạ trong nhiều năm trời, khi được phục hồi cũng sống dở chết dở. Nhà thơ nói về những khốn khổ của mình, của bạn bè, đàn anh mình không oán thù, chỉ cần mô tả đã gây xúc động người đọc. Nhưng điều đáng cảm phục hơn nữa là ông kể lại chuyện về quê nhà một làng nghèo cực ở Quảng Trị. Ông nói chuyện với thiếu nhi về ca dao và đưa ra nhận định phê phán thái độ phản phúc, bội bạc trong bài ca dao về Sen và Bùn vì làm sao Sen có được mùi hương, vẻ đẹp như vậy nếu không nhờ bùn tanh hôi… Rồi ông được mời ngâm thơ vì cả làng hãnh diện có một nhà thơ nổi tiếng. Ông thú nhận hồi thơ ấu trong làng, ông chỉ dám mơ về sau này được làm thằng mõ là mãn nguyện lắm rồi. Nhưng nhờ có Đảng, cách mạng ông mới trở thành nhà thơ, mặc dầu Đảng đã làm cho ông và bạn bè ông thân tàn ma dại… * * * Có một sự kiện thuộc quá khứ của cha anh mà các thế hệ con cháu bây giờ muốn tìm hiểu, là chuyện học tập cải tạo, hay tù chính trị, sau khi người cộng sản chiếm được chính quyền. Ở hải ngoại, một số hồi ký viết về đề tài này đã xuất bản, nhiều cuốn bán chạy. Nhưng lại xảy ra trường hợp vài tác giả thuộc giới nghệ sĩ, nhà văn tố cáo mạt sát nhau qua những hồi ký mà họ đã viết. Gần đây, có tác giả là sĩ quan quân đội quốc gia trước 54, ở lại miền Bắc và phải đi học tập cải tạo sau 54, viết về các trại cải tạo ở miền Bắc, không nói về mình mà chỉ nhằm ghi lại cung cách ở tù của mấy tu sĩ công giáo mà tác giả không công giáo gọi là các thánh tử đạo, và gửi đăng báo ở hải ngoại. Xem những bài có giới thiệu là Ký của Kiều Duy Vĩnh, đăng trong tạp chí Thế Kỷ 21 Hoa Kỳ, những số 98, 100 năm 1997. Rồi một vài cuốn hồi ký khác như Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Văn Nghệ xuất bản, Hoa Kỳ 1997.Sách bán khá chạy, tái bản nhiều lần, có lẽ không hẳn chỉ vì kể chuyện ở tù cải tạo, mà vì tác giả là con một người là bí thư ông Hồ, bị tù trong vụ án gọi là “vụ xét lại chống Đảng”. Vụ này đã xảy ra trên 30 năm trước mà vẫn còn kéo dài cho đến bây giờ. Tác giả đã kể những chuyện “thâm cung bí sử” của giới lãnh đạo chóp bu của đảng mà người đọc hải ngoại, đa số gốc miền Nam chỉ nghe đồn hoặc biết qua loa… Cũng đã có những phê phán Vũ Thư Hiên từ những cây bút tị nạn gốc miền Bắc hay miền Nam định cư ở Bắc Mỹ. Tất cả những hồi ký, ký về cải tạo, tù chính trị do những tác giả chống cộng gốc miền Nam hay cán bộ, cựu đảng viên gốc miền Bắc đều nhằm tố cáo chế độ lao tù và chế độ chính trị chủ trương chế độ lao tù đó. Nhưng tại sao những “nạn nhân” của chế độ lao tù đó lại không đồng ý được với nhau, thậm chí tố cáo mạt sát nhau? Vậy những người trẻ thuộc hàng con cháu, được các tác giả là cha anh của họ gửi tặng sách, biết nghe ai, tin ai? Điều đáng lưu ý là trong số các tác giả, có cả những người thuộc giới nhà tu và chính một tác giả trong giới này lại bị các nạn nhân đồng cảnh, không phải những người cầm bút, kết án.. Đó là cuốn Aka và Thập giá – ai thắng ai? của linh mục Phan Phát Huồn do nxb. Viet Redemptorist Mission, California, USA xuất bản,1999 đi trại cải tạo với tư cách là tuyên úy quân đội VNCH đồng hoá sĩ quan cấp tá. Tập hồi ký này có in kèm theo những phản ứng của người đọc lúc hồi ký đang trên báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có những lời xưng tụng và có cả những lời sỉ vả. Có thể tác giả nghĩ rằng đăng lại cả những lời sỉ vả chỉ thêm giá trị những lời xưng tụng? Nhưng độc giả bày tỏ những lời sỉ vả tự xưng là sĩ quan quân đội “Đối với linh mục Huồn “chúng ta biết nhau quá nhiều” không phải chỉ ở Suối Máu, các trại kể từ K1 đến K5 mà còn ở trong quân đội trước 75, có thể là cấp chỉ huy của linh mục Huồn ở Tổng Tham Mưu, các phòng tình báo, an ninh, Chiến Tranh Chính Trị, Quân Cụ.” Những lời nói nặng, sỉ vả không dẫn chứng cụ thể có thể làm cho người đọc ít am hiểu thời cuộc trước 75, như giới trẻ, hay những giáo dân tốt lành tin tưởng kính mến các cha, nhất là các cha dòng, cho rằng đây là những người ngoại đạo đố kỵ công giáo bôi xấu đạo, hạ nhục các linh mục. Tuy nhiên, người đọc vô tư bỏ qua những lời nói nặng nề, có thể thắc mắc về hai điều mà những người phê phán đã nêu lên tác giả khoe những ưu ái trân trọng mà Tổng Thống miền Nam đã từng dành cho mình. Tại sao một nhà tu, chuyên lo chuyện phần hồn, lại được người cầm quyền phần đời, kể cả người có quyền thế nhất nước phải vì nể, vì đạo đức thánh thiện hay vì thế lực chính trị do quyền hành tôn giáo mà có? Những phê phán cũng trách tác giả bỏ nước ra đi trong khi nhiều tuyên úy sĩ quan khác ở lại trong nước?. Tuyên úy quân đội không phải quân nhân sĩ quan thực thụ. Tác giả nộp đơn xin xuất cảnh với danh nghĩa HO phải chăng như vậy là nhìn nhận những người bắt tác giả đi học tập cải tạo và cho phép linh mục xuất ngoại với danh nghĩa HO đã xử sự đúng trong việc coi tác giả không phải là linh mục mà là sĩ quan? Những bạn đọc Công giáo có thể thắc mắc về cái tựa sách mà LM Phan Phát Huồn đặt cho hồi ký Aka và Thập Giá, ai thắng ai?. Thắng thua có ý nghĩa nào đó trên bình diện nhân loại, nhưng có ý nghĩa gì không trên bình diện tôn giáo, đức tin? Hồi ký của linh mục Phan Phát Huồn và của một số sĩ quan, viên chức chính thể VNCH ở cấp chỉ huy đều xác nhận đã bị buộc phải thú tội, nhìn nhận những thất bại của cá nhân, phe quân đội, hành chánh VNCH, và còn buộc phải chào cờ, ca hát hoan hô các đường lối cách mạng của kẻ thắng trận như điều kiện học tập cải tạo tốt để được ra khỏi trại… Ý định hạ nhục được đẩy đến cực độ trong chính sách dùng người ít học, nói ngọng hay phát âm theo giọng địa phương làm cán bộ quản lý trại, những người mà bây giờ một vài tác giả hồi ký cải tạo tỏ ý khinh thường, nhưng không hiểu họ có dám bày tỏ thái độ khinh bỉ công khai thời ở trong trại “cải tạo” hay không? Rất nhiều người đi học tập cải tạo sau này ra nước ngoài theo diện bảo lãnh hay HO vẫn giữ yên lặng, phải chăng chỉ vì họ còn biết giữ một chút liêm sỉ? Độc giả hải ngoại công giáo hay ngoài công giáo đọc mấy bài của Kiều Duy Vĩnh nhắc tới ở trên và đặc biệt cuốn Năm chiếc bánh và hai con cá của Nguyễn Văn Thuận mà tôi có giới thiệu trong tạp chí Đi Tới, Montreal, số tháng 1, 1999. Sách có nhắc lại kỷ niệm thời ở tù 13 năm, nhưng chúng ta không thể không nhận ra cung cách ứng xử khác hẳn của nhà tu này so với cung cách của linh mục Phan Phát Huồn và thắc mắc tự hỏi tại sao cũng là một nhà tu theo cũng một tôn giáo lại có những cách ứng xử trái ngược nhau như vậy? Thực ra, tôi biết nhiều trường hợp các nhà tu Công giáo hay Phật giáo, trong chỗ riêng tư, đều nhìn nhận thời gian học tập cải tạo hay ở tù chính trị như một thử thách giúp họ trở lại với tinh thần tôn giáo, lý tưởng tu trì mà trước đó họ đã ít nhiều xa rời, thậm chí phản bội nữa, nhất là những kẻ có quyền hành đạo đời. Do đó họ coi học tập cải tạo, ở tù như một hồng ân Thiên Chúa ban cho họ để tu tỉnh lại. Một người bạn già từng làm Giám đốc công an một tỉnh Bắc Việt trước 54, di cư vào Nam và sau 75 đi tù cùng thời gian với tôi, viết cho tôi “Nhận được thư anh, tôi ngạc nhiên, sửng sốt và cảm động như ngày 8-2-1988 tôi nhận được lệnh tha của Công An. Thật vậy tôi không ngờ anh còn sống và được ra nước ngoài như thư anh viết. Kỳ ở Chí Hòa, tôi được Võ Long Triều cho biết anh đã về chầu Chúa. Khi ra khỏi tù tôi cũng không nghĩ đến liên lạc anh cũng vì lý do trên… “Tóm lại, tôi không oán hận gì trong những năm bị cấm cố vì xét theo một khía cạnh nào đó, nhất là khía cạnh đức tin thì thời gian ở tù là một dịp để đền tội và sống đức tin một cách sâu sắc, đầy đủ hơn những năm tháng hoạt động tông đồ trước ngày Saigon mất. Đại khái, đã từng làm luật sư mình mới thấm thía những khẩu hiệu “An toàn pháp định” và hiểu thế nào là tù cấm cố réclusion. Chính ra chế độ học tập cải tạo bằng lao động còn dễ chịu và đỡ tổn hại thần kinh hơn chế độ cấm cố, quanh năm ngày tháng, giam kín trong 4 bức tường mà anh cũng có dịp thử nghiệm ở đường Trần Hưng Đạo” Sở Thành Phố, trước 75 là nha Cảnh Sát Đô Thành – chú thích của NVT. Nhớ viết thư cho tôi vì tôi cũng có đôi chút hiểu biết về tình trạng Việt kiều ở Mỹ. Chính tình trạng này cũng làm tôi bị déprimé vì đồng bào hay đúng hơn những người làm chính trị ở miền Nam di dân qua Mỹ còn bị quá nhiều chia rẽ và lẩn quẩn với hận thù. Trong hoàn cảnh như thế, khó mà làm được việc gì ích quốc lợi dân và đóng góp cho tương lai Việt Nam. Lơ mơ còn bị chụp mũ đủ thứ và có khi bị ăn cả đạn nữa. thư riêng, viết ngày 19-04-1994. Trước khi ra khỏi tù về nhà, tôi có cám ơn người thẩm vấn tôi, gọi là trưởng phòng chấp pháp ông là người đã hỏi cung hầu hết trí thức, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư và các nhà tu hành Công giáo, Phật giáo bị bắt trong những năm đầu sau 75, cám ơn về thời gian ở sở Lúc đó ông không hiểu được ý của tôi; chỉ về sau khi về hưu chúng tôi hay gặp nhau, lại nghe ông tâm sự kể những đau buồn ảo tưởng của một đảng viên “đâu có ngờ đến tình trạng hiện nay”, tôi nói ông mới hiểu. Tôi cũng biên thư cho mấy trí thức giáo sư Pháp đã can thiệp cho tôi, chỉ xin nói tên một người giáo sư Laurent Schawtz đồng chủ tịch tòa án Russell với Sartre, để cám ơn sự can thiệp của các vị đó, do một người bạn ở Paris cho biết, mà tôi không rõ các vị đó can thiệp thế nào, với ai. Tôi nói với các vị đó thời gian ở tù là một tĩnh tâm tốt nhất trong đời tôi. Có khi ba tuần, một tháng bị giam trong một “cachot” lờ mờ không rõ ngày đêm, chỉ mong được gọi đi thẩm vấn, vì như vậy là được ra ngoài nhìn thấy ánh nắng, cảm thấy gió thổi, thở khí trời và nhìn thấy người, là những điều bình thường nhưng chỉ thấy quý khi mất… Những ai quen nếp sống hoạt động có thể đập đầu vào tường tự sát vì không chịu nổi tình trạng không được tiếp xúc, giao thiệp. Người ta thường sợ phải nhìn vào mình, nhất là để phản tỉnh tự kiểm điểm, và như vậy hoạt động giao thiệp chẳng qua là một cách để trốn lánh không phải nhìn vào mình, hay nói theo Pascal, là một thứ “divertissement”. Nhưng một người quen suy tưởng, ít nhiều có đời sống nội tâm lại coi tình cảnh ở tù một mình là dịp hiếm hoi để nhìn lại toàn bộ cuộc đời của mình, đối diện với lương tâm và trước mặt Chúa mà không cảm thấy cần tự biện hộ, vì nghĩ rằng có thể không bao giờ ra khỏi nơi đây, hoặc chỉ ra khỏi nơi đây khi đã ra khỏi đời này… Trong tình cảnh đó, dễ dàng nhận ra những gì mình đã nhân danh gọi là lý tưởng này nọ đôi khi chỉ che giấu những động cơ, mục tiêu cá nhân Hám danh lợi quyền lực, muốn được xung tụng trọng vọng… Đồng thời thấy được phán đoán phê phán người khác, dù đúng ở một khía cạnh nào đó, xét về toàn diện con người như một huyền nhiệm, vẫn là hẹp hòi sai lầm. Ngoài ra cũng nhận ra những khía cạnh tích cực, những ưu điểm ở nơi người bị phê phán… Sau cùng dễ dàng nhìn nhận những lỗi lầm, sai trái của mình và đảm nhận trách nhiệm về phần mình trong những sai trái lỗi lầm ở nơi người khác… Sau khi ra tù, tôi được biết mấy linh mục quen thân và hai sinh viên cũ tố cáo tôi, dẫn đến việc tôi bị tù. Thoạt nghe không khỏi buồn bã chua xót vì những linh mục đó là những người bạn đường, hoặc đàn em tôi đã nâng đỡ, xin Nha động viên hoãn dịch, chấm đỗ cao học mặc dầu các giám khảo khác chống đối họ vì lập trường chính trị, và đưa họ vào ban giảng huấn đại học. Nhìn lại mình, tự kiểm điểm cách đối xử của tôi trước đây thế nào, và tôi nhận ra những sai trái của một lối hành xử cho là một cách khống chế donner c’est asservir. Sau 75, họ tìm cách tách khỏi tôi như thể không dính dáng gì với tôi, và đã tố cáo tôi. Tôi quyết định đi gặp họ để xin lỗi họ… Tha thứ và xin tha thứ quả thật rất khó, không đơn giản chút nào vì tha thứ và được tha thứ không phải chỉ là trả một món nợ mà chính là phục hồi một quá khứ. Phải nhớ lại những lời nói việc làm nào đã gây tổn thương, xúc phạm người khác, phải tìm hiểu tại sao và trong hành trình ngược thời gian phải tìm hiểu, đôi khi đụng đến cái không thể phục hồi được. Không thể đền bù được và do đó không thể tha thứ được… những con người, thể chế chính trị xã hội nạn nhân của những phê phán đả kích một cách oan uổng, bất công đã chết hoặc không còn tồn tại nữa. Tuy người chết không thể làm sống lại, một chế độ đã qua không thể phục hồi, nhưng vẫn có thể thay đổi những ý nghĩa đã gán cho quá khứ và chính nhu cầu thay đổi ý nghĩa đưa tới đòi hỏi tha thứ và xin tha thứ. Tha thứ và xin tha thứ không xoá bỏ quá khứ mà chỉ gán cho quá khứ những ý nghĩa khác thể hiện một giải thoát làm cho tâm hồn được thanh thản…. Bây giờ, nhìn lại những chặng đường đã qua ở tuổi 70, tôi thấy vẫn phải bắt đầu bằng quá trình tha thứ và được tha thứ. * ** Tôi có một bản thảo về ngôn ngữ và văn học dân gian [2] gặp rắc rối trong nước nên chưa xuất bản được. Ra hải ngoại, tôi đưa cho Nguyễn Mộng Giác, lại gặp rắc rối về những lý do tôn giáo không phải liên quan đến chính bản thảo, mà đến cá nhân tôi. Đã xảy ra một hiểu lầm làm cho Nguyễn Mộng Giác “đoạn tuyệt” với tôi. Sư kiện này buộc tôi phải nhìn lại toàn bộ những liên hệ của tôi với Phật giáo trước và sau 1975 để tìm hiểu tại sao có những đố kỵ ác cảm với tôi, mặc dầu tôi có những quan hệ thân tình với nhiều vị lãnh đạo Phật giáo như HT Trí Quang. Cuối cùng tôi nhận ra rằng, đối với một số dư luận Phật giáo, đặc biệt ở những người hẹp hòi hay đầy mặc cảm, tôi không thể được tách rời ra khỏi giới Công giáo và những chế độ chính trị ở miền Nam trước 75, đặc biệt thời Đệ Nhất Cộng Hòa, nghĩa là tôi không được tách ra khỏi những uất ức oán giận bất mãn đối với người Công giáo và những chế độ chính trị được coi như những chế độ Công giáo; và vì thế tôi phải nhận lãnh trách nhiệm liên đới về phía Công giáo. Mang tâm nguyện tha thứ những ngộ nhận, xuyên tạc vu khống và xin được tha thứ, tôi đã viết thư xin lỗi Nguyễn Mộng Giác và đã được trả lời. Trao đổi thư từ giữa tôi và Nguyễn Mộng Giác đã đem lại cho tôi một thanh thản tâm hồn, một niềm vui vì một mối bất hòa đã được giải tỏa. Tôi nghĩ rằng sau khi tôi viết về vấn đề này và xin lỗi những người Phật giáo đố kỵ vì một số lời nói bài viết của tôi đã gây phiền lòng, bất kể đúng hay sai, tôi cũng sẽ được thanh thản, và niềm vui lớn hơn nữa. Đối với giới Công giáo ở hải ngoại, tôi cũng gặp rắc rối. Sự kiện ra nước ngoài hay đi đây đó Hoa Kỳ, VN tạo ra nghi ngờ là tôi được “cử đi công tác trí vận”, vì tôi không đi làm, không hưởng trợ cấp nào, tại sao có tiền mà đi? Sự nghi ngờ tăng thêm khi tờ Tin Nhà ở Paris ấn hành một phụ bản Về Cuộc Đối Thoại Dân Chủ. Lữ Phương – Nguyễn Kiến Giang và Nguyễn Văn Trung 1995, nêu nhiều nghi vấn về tư cách chính trị của tôi. Theo chỗ tôi biết, không có nhiều phản ứng ở báo chí bên Mỹ. Tôi được đọc một bài ký bút hiệu của độc giả gửi báo Văn Nghệ Tiền Phong mà ông chủ bút cho tôi biết trước sẽ đăng để bán báo. Bài báo mạt sát tôi một cách hạ cấp và nhầm lẫn một cách tai hại giữa một người tên là Nguyễn Kiến Giang, một đảng viên dính líu vào vụ án “chống xét lại” ở miền Bắc, với Nguyễn Kiên Giang, tác giả viết kịch cải lương ở miền Nam. Có lẽ vì vậy không gây được tranh luận kẻ bênh người chống như tờ báo mong muốn. Sau đó, Đức Ông Hoài, phụ trách Phong Trào Giáo Dân ở hải ngoại, một chức vụ do Roma đặt ra, viết Tâm Thư trong đó có nhắc đến tôi, khẳng định tôi được cộng sản sai đi. Tâm Thư chỉ phổ biến trong nội bộ Công giáo. Người Công giáo đi hồi 75 chỉ nghe tiếng tôi là người hay phê phán, đả kích giáo hội, đặc biệt về hai điều Liên hệ với chế độ thực dân và mất gốc về văn hoá, sau được những người ngoài Công giáo như Trần Văn Giàu, Nhất Hạnh dựa vào đó mà phê phán Công giáo, nhưng lại không biết gì về thời gian sau năm 75 tôi đã thay đổi lối nhìn. Trước 75 tôi hay đặt vấn đề “Dân tộc cho người Công giáo”, bây giờ tôi cho rằng đến lúc đặt vấn đề “Công giáo đặt cho Dân tộc”. Lối đặt vấn đề như thế đã có tác động trong giới trí thức đảng viên…. Trong tập “Nhìn lại những chặng đường đã qua” này tôi sẽ trình bày diễn tiến những quan niệm của tôi về vấn đề Công giáo đặt ra thế nào trước và sau 75 và chắc dư luận công giáo hải ngoại sẽ hiểu rõ tôi hơn. Duy có trường hợp mối bất hòa giữa Nguyễn Ngọc Lan và tôi có thể đã là nguồn gốc việc ra phụ bản Tin Nhà và -phần nào- Tâm Thư Đức Ông Hoài. Hồi 1992, anh Nguyễn Ngọc Lan viết bài phê phán tôi, sau nhiều bạn cũ của anh. Tôi đáp lại, nhưng bài này chỉ phổ biến thật giới hạn trong chỗ bạn bè gần gũi. Nhưng sau khi tôi ra nước ngoài ai đó đã biên tập lại bài tôi viết, bỏ một số đoạn, đem in và phổ biến rộng rãi trong các họ đạo, ngoài ý muốn của tôi. Điều quan trọng ở đây không phải là ai phải ai trái, mà những người quen biết cả hai chúng tôi không vui gì về mối bất hòa này, nên tôi quyết định viết thư xin lỗi anh Lan. Anh Lan đã đáp lại mau chóng và tôi thật hân hoan về sự hòa giải này, nên cũng xin phép anh Nguyễn Ngọc Lan sẽ cho phổ biến thư anh để bạn bè quen biết chia sẻ với tôi niềm hân hoan và những ai lợi dụng mối bất hòa này không còn có thể lợi dụng. * Sau cùng xin nhắc đến một lá thư gửi cho tôi trong một hoàn cảnh thật đặc biệt để tôi nhìn lại những chặng đường dạy học và biên khảo nghiên cứu của tôi. Đây là bài viết của một thí sinh kỳ thi ban Triết ở Đại Học niên khoá 1969 về đề tài “Phê bình huyền thoại phải chăng không tránh được dựa trên huyền thoại phê bình?”. Thay vì làm bài, thí sinh đã để 4 giờ viết thư cho tôi, và, qua tôi, cho các đàn anh bày tỏ tâm sự của tuổi trẻ trước thời cuộc đưa anh tới quyết định bỏ thi, mặc dầu thi đậu là một điều kiện hoãn dịch… Tôi đưa cho mấy giáo sư giám khảo đọc, chúng tôi đều cảm phục tư cách, thái độ can đảm của anh. Riêng tôi muốn chấm cho anh đậu cao, nhưng có vị khác không tán thành vì bài vượt ra khỏi nội qui trường thi. Cuối cùng mọi người đồng ý không cho điểm và tôn trọng sự lựa chọn của thí sinh. Tôi chụp sao lại một bản in giữ làm kỷ niệm, và sau 30 năm, phổ biến, trả lời công khai tác giả, không rõ còn sống hay đã chết, ở Việt Nam hay định cư ở nước ngoài. Tôi muốn tâm sự với tác giả về những ý nghĩ của tôi hồi đó trước 75 và sau 75. Trước 75, tôi đã viết nhiều bài, in sách phê phán tố cáo chế độ giáo dục ở miền Nam Việt Nam mà tôi gọi là “nỗi buồn đại học”, và chế độ chính trị xã hội miền Nam mà tôi gọi là “nỗi buồn chiến tranh”, “nỗi buồn nhược tiểu”. Những phê phán này hoặc chỉ ở mức độ đòi thay đổi một đường lối, chính sách, hoặc triệt để hơn thay đổi cả chế độ… Thời đó, tôi chỉ nhìn thấy những thiếu sót, sai trái, yếu kém của miền Nam, thể chế Việt Nam Cộng Hòa… Tóm lại, chỉ thấy toàn màu đen… Sau 75, chế độ miền Nam được gọi là “chế độ Mỹ Ngụy”, “vùng tạm chiếm” không còn nữa. Tôi dần dần nhận diện lại những khuôn mặt của chế độ đó, và mới thấy những cái hay, tích cực của nó mà trước 75 tôi đã không lưu ý vì đó là những cái bình thường của nếp sống hằng ngày, sinh hoạt giảng dạy, văn hoá…. Trớ trêu hơn nữa chính người miền Bắc mới vào nêu thắc mắc, nhắc nhở tôi nhận diện lại. Chẳng hạn đối với người miền Nam, cầu xa lộ Biên Hòa trước khi vào Saigon vẫn chỉ là cái cầu, nhưng đối với người từ miền Bắc vào lại nhận thấy không phải cái cầu mà vẫn là con đường nối dài. Hoặc tại sao miền Nam lại lưu tâm giải quyết nhu cầu hằng ngày như đi vệ sinh một cách chu đáo đến thế khi họ thấy và được dùng những cuộn băng mang nhãn hiệu “Kiss me” trắng tinh vẫn còn bày bán trên vỉa hè Sài Gòn sau ngày 30/04/75. Những nền nếp sinh hoạt đại học, cách tuyển mộ nhân viên giảng huấn, giảng dạy, thi cử, trước 1975 nay bị xoá bỏ được thay thế bằng những lề lối trái hẳn truyền thống đại học của thế giới. Lúc này tôi mới cảm nhận được ý nghĩa, giá trị của những nền nếp đại học trước 1975. Tuy nhiên, phải nói ngay là không phải những gì đã phê phán trước 1975 là sai trái cả. Nhưng cái sai trái, thiếu sót là đã không nhận ra những cái tích cực ưu điểm tựa mầu hồng, mầu trắng của chế độ giáo dục xã hội miền Nam trước 75. Điều ngày này tôi nhận ra là nhiều nếp sống mang nhiều ý nghĩa giá trị xã hội đạo đức bị lợi dụng nhằm mục đích lật đổ chế độ miền Nam, và những người dễ để cho bị lợi dụng thực ra cũng có trách nhiệm sự lợi dụng đó về phần mình. Chỉ xin nêu hai trường hợp 1. Tự trị Đại Học. Miền Nam trước 75, ít nhiều thực hiện được cái mà bây giờ gọi là “xã hội công dân” Société civile nghĩa là một mảng sinh hoạt do chính giới liên hệ tự quản lý như các hội bác sĩ, luật sư, hay tự trị đại học của giới đại học. Phong trào tranh đấu đô thị của sinh viên do Thành Đoàn lãnh đạo thành lập Phong Trào Tự Trị Đại Học, núp sau một nếp sống dân chủ, bị coi là “chiêu bài” để che giấu, biện minh những hoạt động chống đối chính quyền, đặc biệt chống đối quân dịch. Cảnh sát có thể đàn áp ở ngoài đường phố, nhưng không thể trong khuôn viên đại học. Sinh viên vẫn có quyền treo biểu ngữ, hô khẩu hiệu, biểu tình mà cảnh sát không dám can thiệp vì giáo sư, khoa trưởng đồng tình “bảo vệ Tự Trị Đại Học”. Sau 75, người tiếp quản dạy học Văn Khoa, thắc mắc hỏi tôi tại sao lại Tự Trị Đại Học? Năm 1992 Trung Tâm nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, trong Đại Học Sư Phạm TpHCM tổ chức hội thảo, đề nghị tôi viết về Tự Trị Đại Học trước 75. Bài này đã không được đọc trong khoá hội thảo và Hà Nội cho người vào điều tra vì nghi ngờ có một mưu đồ gì đây. 2. Lựa chọn trung thành với đạo lý hơn bảo vệ một lập trường chính trị. Sau 75, một buổi họp thân hữu nhóm sinh viên tranh đấu được tổ chức ở nhà Bé Ký Hồ Thành Đức. Anh B hỏi tôi có gặp mấy bạn học của anh gần đây không. Rồi anh khoe hồi tụi em hoạt động nội thành, đi qua khu canh gác giữ an ninh của mấy bạn học đó, họ hỏi thăm rồi nói thôi tụi bay đi chỗ khác, không bắt tụi em. Tôi hỏi lại anh Nếu bây giờ mấy anh bạn đó hoạt động chống đối đi qua khu vực anh giữ an ninh, anh có bắt không? - Bắt chứ. Ngay cả trong hàng ngũ tướng tá, cũng có trường hợp bao che cho những người nằm vùng vì là họ hàng ruột thịt. Cách mạng Việt Nam là bậc thầy của sách lược Lêninít vì đã bổ sung cho nó một yếu tố mới Vận dụng những tình cảm gia đình, quan hệ vợ chồng, bạn bè phục vụ những mục tiêu tranh đấu cách mạng. Do đó những người nằm vùng có thể hoạt động công khai, ít ra đối với những người quen thân mà không sợ bị tố cáo. Như vậy, chế độ chính trị miền Nam thua phải chăng cũng còn vì lý do thuộc đạo lý Lựa chọn trung thành với những giá trị đạo lý hơn bảo vệ một lập trường chính trị? Nhưng có người như ông Ngô Đình Cẩn bất chấp đạo lý, pháp lý, lựa chọn hiệu nghiệm chính trị dùng khủng bố “bạo lực phản cách mạng” để chống lại khủng bố bạo lực cách mạng của người cộng sản. Ở miền Trung nhiều thanh niên trước khi tập kết ra Bắc được khuyến cáo lập gia đình, nhưng để vợ lại miền Nam. Sau đó, người chồng chưa về được gửi gắm bạn bè xâm nhập từ Bắc vào cho vợ, yêu cầu người vợ giúp đỡ bạn như giúp mình. Ông Cẩn buộc những người vợ có chồng tập kết phải ly dị, lấy người khác. Hồi 1957-1960 tôi đang dạy học ở Huế, thường về Saigon bằng xe hỏa chạy ban đêm thật an ninh. Chỉ sau này, quãng 1992 được đọc tài liệu của nhóm tình báo chiến lược cựu tù nhân của ông Cẩn ca tụng những “thành tích chống cộng tuyệt vời của Ngô Đình Cẩn”, tôi mới hiểu tại sao hồi đó ở miền Nam có an ninh ổn định. Nhưng ông Cẩn bị Tòa Án miền Nam kết án tử hình vì những vi phạm pháp lý của ông. Bây giờ, nếu tòa án đó xử lại, mà nhân chứng, luật sư là những người lãnh đạo cách mạng, cựu tù nhân của kẻ bị cáo, thì sẽ phán quyết ra sao? Qua hai trường hợp tôi vừa nhắc ở trên, sau 30 năm, tôi muốn ngỏ đôi lời với tác giả lá thư gửi đàn anh viết thay vì làm bài thi. Hồi đó, đọc lá thư có gây xúc động và làm cho tôi cảm phục anh, không phải vì anh phê phán đả kích Mỹ, chế độ miền Nam, vì đó là điều bình thường trong tình thế thời đó; không phải mình anh đã làm như thế. Báo chí miền Nam công khai gọi đại sứ Mỹ Bunker là “ông già tủ lạnh”, “quan thái thú Giao Chỉ”, sự can thiệp của người Mỹ là do bàn tay lông lá của họ. Tôi nhớ Phan Nhật Nam trong một ký chiến trường có thuật lại ông đã điện đàm với một chính uỷ phía bên kia, đề nghị ông chính uỷ đả kích Liên Xô, Trung Quốc sau khi nghe ông đả kích Hoa Kỳ. Ông chính uỷ không đáp lại đề nghị của Phan Nhật Nam. Tôi cũng không thấy cần phải đặt vấn đề “cảm phục” Phan Nhật Nam và “chê trách” ông chính uỷ nọ. Đây không phải vấn đề tư cách thuộc đạo lý mà là vấn đề thế chế chính trị khác biệt. Khung cảnh văn hoá xã hội của miền Nam trước 75 đã để cho những người cầm bút có thể phê phán, đả kích công khai những người cầm quyền và đồng minh, còn thể chế của miền Bắc thì không. Sau 75, tôi phục Phan Nhật Nam vì thái độ cương quyết từ chối gặp và nhận bảo lãnh của người cha đứng ở phía bên kia trong thời gian nhà văn học tập cải tạo. Trở lại với tác giả lá thư viết trong phòng thi kia, sở sĩ tôi cảm phục anh là vì anh đã can đảm quyết tâm từ chối một ưu đãi dành cho một số thanh niên trí thức có tú tài học đại học được hoãn dịch nếu thi đậu…. Sau 1975, nếu anh còn sống, ở lại miền Nam, nhớ lại hành động của mình đã chửi Mỹ, chế độ miền Nam, chửi cộng sản trong bài thi, chắc hẳn anh nhận ra lúc anh viết, anh chỉ nghĩ đến những gì anh muốn nói, mà không hề băn khoăn dè dặt e ngại sẽ gặp phiền hà gì về chính trị. Tôi và mấy giáo sư giám khảo đọc bài của anh cũng có tâm trạng tương tự không thấy e ngại liên lụy gì về thái độ của anh, v à đã không làm cái việc là báo cáo sự kiện đã xảy ra… Nhưng sau 75 liệu anh có dám làm như thế không và chúng tôi có dám “bỏ qua” việc làm của anh không? Chắc anh có đọc ít nhiều những gì tôi đã viết. Thời gian trước 75, tôi đã có hàng chục cuốn sách xuất bản, đầy những phê phán chế độ người Mỹ can thiệp vào miền Nam, nghĩa là tôi cũng đã “hưởng ít nhiều tự do ăn nói, phê phán” của chế độ chính trị miền Nam thời đó. Ngoài ra, tôi còn giảng dạy một lớp về Marx trong nhiều năm ở ban triết trường đại học Văn Khoa. dĩ nhiên trong tinh thần nghiên cứu đại học và cũng chỉ giới hạn vào việc giới thiệu, hành trình của Marx, đặc biệt thời trẻ tuổi. Tôi không gặp một rắc rối nào về phía chính quyền, hay ngay cả một phê phán tố cáo của một người cầm bút nào đó trong việc giảng dạy. Đem đi kiểm duyệt để xuất bản, cuốn viết về cuộc đời Marx được in còn cuốn Nhận diện Marx thì không. Nhiều bài khác liên hệ đến cộng sản, có bài bị kiểm duyệt bỏ một số trang, có bài bị bỏ nguyên cả bài, đều được ghi nhận trong sách là bị kiểm duyệt bỏ. Những tác giả khác cũng làm tương tự. Ít ai lo ngại tối nay có người đến nhà hỏi thăm sức khoẻ hay nhận được giấy của phòng an ninh chính trị kêu đi làm việc… Chế độ chính trị xã hội miền Nam trước 75 phân biệt đời công với đời tư, tôn trọng tự do trong lãnh vụ đời tư và ít nhiều tôn trọng tự do trong lãnh vực đời công ngay cả về chính trị. Chủ trương như thế không phải không có ngụ ý chính trị, trước mắt hay về lâu về dài. Chẳng hạn để chứng tỏ miền Nam có tự do, miền Bắc thì không; hoặc để tạo cho dân chúng, đặc biệt giới trí thức, ngay cả thân cộng hay theo cộng sản nếp sống dị ứng với những thể chế áp đặt một chiều, rập khuôn. Điều này đã được thể nghiệm sau 75, còn đối với những sinh viên trí thức ra khu, ra Hà Nội, nó đã được thể nghiệm sau biến cố Mậu Thân 1968 như một số đã tâm sự với tôi sau 1975. Tuy nhiên những chủ trương để cho ăn nói ít nhiều tự do, phê phán chỉ thuộc về phương thức thực hiện, không phải về bản chất chế độ. Đúng là một thứ chuyên chính tư bản. Chuyên chính tư bản chỉ khác chuyên chính vô sản về phương thức thực hiện, không phải về bản chất. Sau 75, nếu anh ở lại miền Nam, chúng ta đã được nghe nói nhiều về luận điệu chuyên chính tư sản, nhưng chúng ta ít được thuyết phục…. Khả năng thuyết phục chắc hẳn cao hơn nếu những người nói vận dụng lập luận của chính các nhà nghiên cứu tây phương như cuả J. Christophe Rufin La dictature libérale, le secret de la toute puissance des démocraties au XXe siècle. Clattis, 1999 mà tôi được đọc gần đây. Tôi lược tóm một số ý của tác giả này gửi anh “Chế độ tự do tồn tại không tùy thuộc sự kiện các địch thủ của nó yếu kém, mà tùy thuộc vào chính sức mạnh riêng của nó. Sức mạnh bắt nguồn từ khả năng không phải chỉ thắng các kẻ thù mà còn phát triển nhờ chống lại các kẻ thù của nó. Nền văn hoá tư sản tạo cho mình một sức mạnh do chính những thù địch nó phải đương đầu. Đó là nền văn hoá trong lịch sử không hề đòi hỏi một ưng thuận tự nguyện nào. Trái lại không những nó để cho tự do mà còn khuyến khích những chống đối nó triệt để nhất. Nó có điểm đặc biệt được nuôi dưỡng bằng chính những gì chống lại nó, biến đổi thành sinh lực cho việc điều hành chế độ tất cả những thế lực nhằm tiêu diệt nó. Chuyên chính tư sản áp đặt ngay cả cho những ai phủ nhận nó mà không vì vậy ngăn cản họ chống lại nó vì tất cả những đối kháng trong dân chủ tư sản đều bị hoán chuyển có lợi cho nó và những kẻ nhằm tiêu diệt nó thật triệt đế lại chính là những kẻ đóng góp nhiều nhất giúp nó phát triển.” Nhìn lại lịch sử diễn tiến trên 100 năm nay, ai cũng thấy chủ nghĩa Marx và phong trào cộng sản thế giới ra đời đã là một mối đe dọa sinh tử cho chế độ tư bản.. Nhưng sau khi bức tường Bá Linh bị phá huỷ, chế độ tư bản đã ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng này từ nhiều thập niên trước đây, nay trở thành siêu cường độc nhất. Tuy nhiên chủ nghĩa Marx không hoàn toàn trở thành lỗi thời, Nó mang một khuôn mặt mới ở ngay Bắc Mỹ, nơi đã thực sự dửng dưng với chủ nghĩa này thời nó cực thịnh ở Âu châu vào những thập niên 50-70. Nhưng sự phục hồi tư tưởng Marx không ra khỏi khuôn viên các đại học. Trong giới nghiên cứu của các viện khoa học xã hội, giao lưu văn hoá, cũng thấy hình thành những phê phán triệt để chế độ tư bản cho thấy chế độ tư bản đang rơi vào một khủng hoảng khác. còn trầm trọng hơn khủng hoảng mà Marx đã dự đoán vì theo các nhà nghiên cứu này, nó sẽ tự tiêu diệt vì những thành công của nó về kinh tế. Do đó kinh tế tư bản là một kinh tế tự sát trong khuôn khổ rộng lớn hơn của một nền văn minh tự sát vì chính những khái niệm cơ bản đã từng được coi như mấu chốt của sức mạnh tư bản Khoa học kỹ thuật, tính hợp lý hoá, khái niệm tiến bộ, phát triển Nhưng tương tự sự phục hồi chủ nghĩa Marx, những tư tưởng phê phán triệt để chế độ tư bản cũng không vượt ra khỏi giới nghiên cứu ít ỏi của các viện nghiên cứu. Tôi thường tham dự những sinh hoạt của những viện này, với tư cách hội viên, và tôi thật ngạc nhiên nhiều khi nhận ra ở Bắc Mỹ cũng có sự kiện gọi là “phổ biến hạn chế”, “lưu hành nội bộ” như ở Việt Nam hiện nay, chỉ khác một điều ở Việt Nam có qui định, còn ở Bắc Mỹ thì không thấy có qui định pháp lý hay thể chế đại học nào ngăn chặn việc phổ biến rộng rãi, đơn giản chỉ vì những nhà nghiên cứu này không có điều kiện tài chánh mà thôi trong khi những phương tiện truyền thông đại chúng nằm trong tay các tổ hợp tư bản và họ dĩ nhiên không bỏ tiền ra phổ biến rộng rãi những công trình nghiên cứu này. Tuy vậy không phải vì thế mà không trân trọng những phê phán triệt để, đưa vào nghiên cứu để tìm cách vượt qua thử thách khủng hoảng còn nếu bỏ tiền ra là để phổ biến rộng rãi những cuốn như của Francis Fukujama, một chuyên gia Mỹ của hãng Rand Corporation và nhân viên bộ ngoại giao Hoa Kỳ The End of History and the Last Man. Ở Việt Nam chỉ biết những cuốn như vậy, có gây lo ngại tạo ra những cuộc trao đổi, phê phán nó. Tôi viết một bài giới thiệu đăng trong tạp chí Phát Triển Kinh Tế của đại học Kinh Tế Trường Luật cũ số 22 tháng 8, 1992 gây những phiền hà cho ban chủ trương sau khi số báo in ra. Mùa hè 1997, tôi giới thiệu những luận điểm phê phán chuyên chính tư sản do các viện nghiên cứu đề ra trên đài RFI, sau đó mang về Việt Nam nhiều băng video, tài liệu để giới thiệu với bạn bè ở Việt Nam, nhưng toàn bộ đều gặp trắc trở chưa lưu hành được. Hiện tôi còn giữ một bản ghi phát biểu trong buổi tiếp xúc với đại diện ban dân vận thành uỷ Thành Phố HCM tại nhà riêng ngày thứ 5 12/8/1993 yêu cầu tôi và một số người khác cho biết ý kiến về thời kỳ mở cửa đổi mới, thái độ đối với trí thức trong nước, ngoài nước. Tôi đã nói đại ý “tình hình hiện nay là không mở cửa sẽ chết, mở cửa không chuẩn bị chu đáo, đi lệch hướng cũng chết. Tình thế hiện nay là tình thế SOS cứu nguy dân tộc, ưu tiên trên hết là nhận thức được con đường muốn đi là phục hồi niềm tin, lòng người… Sau 6 năm tôi về nước để tìm hiểu xem những đề nghị của tôi có được đáp ứng hay không. Tôi thấy những qui định ngăn cấm ấn phẩm từ bên ngoài vào nước vẫn còn đó….” * Viết “Nhìn những chặng đường đã qua” này, tôi không coi đây là một ký hay hồi ký nhằm rút ra những bài học cho các thế hệ sau. Các thế hệ sau càng xa thời đại hiện nay họ càng bắt gặp những vấn đề thời đại của họ đặt ra, rất khác những vấn đề của thời đại hiện nay. Họ phải đương đầu và giải quyết những vấn đề thuộc thời đại của họ theo sự hiểu biết của họ, cho họ và cũng rất có thể nghi ngờ giá trị những bài học thế hệ trước muốn để lại cho họ vì dễ dàng nhận ra những thiên vị chủ quan của các bài học đó, chẳng hạn như đọc loại hồi ký của ông Trần Quỳnh. Do đó, viết tập “Nhìn lại…” này, tôi tìm hiểu thời đại của tôi và gửi cho những người đương thời cùng tuổi hay trẻ hơn nhằm đóng góp phần của mình tiến tới một cái nhìn phong phú, sâu xa và khách quan hơn về thời đại của chúng ta, vì, nói theo một ý của Sartre, thời đại hiện tại xấu hay tốt, vinh quang hay khốn nạn cũng là thời đại của chúng ta, và chúng ta không có thời đại nào khác. Do đó chúng ta chỉ có bổn phận sống cho trọn vẹn thời đại chúng ta, vinh quang thì cố giữ lại chia sẻ, oán thù thì cố xoá bỏ. Nếu có để lại cho con cháu sau này điều gì, thì chỉ là một tấm gương cha anh đã đá đấm nhau tơi bời, nhưng cuối cùng cũng hòa giải được với nhau. Tôi không thể xác định tập “Nhìn lại…” này thuộc thể loại diễn từ, văn học nào không phải ký, hồi ký và ngay cả biên khảo lịch sử cũng không phải, vì theo nhiều nhà tâm lý học hiện đại như Rosenfield, chúng ta không thể có những hình ảnh bất biến về quá khứ để sử dụng, mà chỉ có những tái xây dựng những sản phẩm của tưởng tượng nghĩa là chúng ta tạo ra một cái nhìn về quá khứ thích ứng với hiện tại. Xem L’Invention de la mémoire. Flammarion, 1999. Theo Gerard Edelman, giám đốc viện khoa học thánh kinh ở Đại Học Rockfeller, Nữu Ước, giải thương Nobel về y học Biologie de la science Odile Jacob 1992 nhớ là xây dựng lại, không phải sao chép y chang các biến cố sống thực và sao chép có lựa chọn tùy theo cái nhìn hiện tại. Kinh nghiệm hằng ngày cho biết nhiều người cùng chứng kiến một biến cố, về sau mỗi người thuật lại một cách khác nhau, hay ai cũng tin mình thuật trung thực quá khứ. Như vậy, ký, hồi ký phải chăng cũng là xây dựng một tác phẩm tiểu thuyết nhằm biện hộ quá khứ của mình? Cùng lắm, đây chỉ là một chứng từ của một người đương thời với tất cả những thiếu sót, chủ quan có thể có vì dù sao tôi cũng phải nhớ lại và sẽ cố tránh làm lộn những ý nghĩ ước muốn của mình bây giờ và cách đây 30, 40 năm, và vì thế lừa dối người đọc. Ngoài ra, trong điều kiện cho phép, cố dùng dẫn chứng, tài liệu liên hệ để người đọc tham khảo, kiểm tra. Trong tập “Nhìn lại những chặng đường đã qua” này tôi không nói gì về thời gian ở tù vì tôi nghĩ kinh nghiệm ở tù trong chế độ hiện nay, chỉ những người đã trải qua mới hiểu được, nhưng không thể nói ra lời, vì những chân lý cốt yếu của kinh nghiệm này không thể chuyển giao cho người không có. Tôi nhận thấy những người đã trải qua mà tôi biết dù là người miền Nam chống cộng hay người miền Bắc theo cộng vẫn ở lại trong nước, hay đã đi nước ngoài nói chung đều giữ im lặng. Những chân lý cốt yếu của kinh nghiệm ở tù chính trị có lẽ cũng tương tự kinh nghiệm gọi là “chỉnh huấn” của cán bộ, đảng viên trung, cao cấp ở miền Bắc. Tôi đã nghe anh Nguyễn Kiến Giang trong vài đêm kể lại kinh nghiệm đi chỉnh huấn của anh và tôi hiểu tại sao anh viết nhiều điều, xuất bản cả ở nước ngoài nhưng hình như anh không bao giờ nhắc đến chỉnh huấn. Nếu tôi không nhầm, theo chỗ tôi được đọc, chỉ một vài người như Tô Hoài nhắc phớt qua Chỉnh Huấn trong hồi ký của ông. Ra nước ngoài, tôi đọc những gì viết về trại tập trung Đức Quốc Xã, cũng thấy nhiều tác giả nhận định không thể viết ra, chuyển giao cái không thể tưởng tượng được, và ai sáng tác, hư cấu các chuyện trại tập trung thành tác phẩm văn học là lừa dối độc giả và làm cho độc giả nghi ngờ những sự kiện xảy ra cho những nạn nhân ở trại. Tôi hỏi một linh mục dòng tên, bản thân ông là cựu tù trại tập trung, tại sao ông và các người đồng cảnh im lặng, ông cũng trả lời tương tự như trên… Tuy nhiên tôi có thể nói về những hậu quả tích cực của thời gian ở tù, ít ra về hai điều 1. Khám phá tha nhân. Ở ngoài nhà tù, những giao tế thường rơi vào tình trạng không thực, nói năng trao đổi không tránh khỏi những điều lảm nhảm, bá láp. Ở trong tù tuy bị cô độc nhưng không cô đơn vì người khác đều là những kẻ vắng mặt hay đã qua đời lại hiện diện một cách thật đích thực và sống động và tôi có thể đối thoại, cảm thông một cách thật sâu sắc với họ. Sự khám phá này làm cho tôi nghĩ đến triết học của G. Marcel tôi đã đọc mà không tin. Tôi cũng hiểu tại sao các nhà tu hành tịnh khẩu hay thinh lặng, tuy sống thoát tục, nhưng không thoát ly với người ngoài đời vì vẫn gần gũi cảm thông với đồng loại. Thân xác bị lột trần, chỉ mặc áo maillot, quần đùi, bị tách rời khỏi những đồ dùng thiết yếu như kính cận, cái bút. Tình trạng này giúp tôi dẹp bỏ được tự ái, tự kiêu tự đại tuy sau khi ra tù, vẫn không hoàn toàn dứt bỏ nhưng ít ra luôn luôn ý thức được yêu cầu gạt bỏ và vì thế dễ dàng hơn trong cố gắng dẹp bỏ… Chỉ còn vấn đề tư cách. Không biết tôi còn giữ được không, và nếu còn thì được bao nhiêu, tuy tôi cũng phải cố gắng giữ… tình hình hiện nay nghi ngờ bao phủ vì mất tin tưởng, mất tín nhiệm nói cái gì không quan trọng bằng tư cách nói. Những điều tôi nói, viết ra có được đón nhận, lắng nghe không, hay bị gạt bỏ ngay từ đầu vì những thiên kiến, đố kị, ác cảm đối với tôi ? Cũng như những người khác, tôi đều có kẻ yêu người ghét. Khi tôi chết rồi, không ai nỡ nói đến những điều muốn tố cáo, kết án vì thế tôi mong muốn được nghe và trân trọng lắng nghe phê phán, những sai trái về nhận thức và những chê trách về tư cách. Tôi sẵn sàng xin tha thứ và tha thứ. Vì điều tôi mong ước chưa hẳn là nói lên được những sự thực nào đó về quá khứ, mà là giải tỏa những thiên kiến và thực hiện được hòa giải với những người quen biết hay không quen biết. Nhiều người giải tỏa được nhưng thiên kiến hòa giải được với nhau sẽ tạo được bầu không khí thuận lợi đế có thể nói với nhau bàn chuyện đất nước. Tôi có một số người quen biết sẵn sàng trong tư thế tự kiểm thảo để tìm hiểu quan điểm của người khác. Mùa hè 1995, tôi gặp lại BS Trần Kim Tuyến, tôi hỏi ông có thể gặp những người ông quen ở phía bên kia như Phạm Xuân Ẩn, người đã giúp ông ra nước ngoài hôm 30 -4-1975, ông nói sẵn sàng gặp cả những người không quen biết và ông tâm sự với một thái độ khiêm tốn. Ông nói, tôi đâu có nghĩ làm những việc đã làm! Thời cuộc đã đưa đẩy tôi, một người chỉ muốn học làm thầy thuốc, vào những chức vụ an ninh tình báo mà tôi không hề được chuẩn bị, do đó phạm nhiều sai lầm là điều tất nhiên, nhưng khuyết điểm lớn hơn cả là tôi đã không am hiểu văn hoá Mỹ. Rất tiếc ông đã qua đời mấy tháng sau lần trao đổi với tôi. Khi về Saigon hồi 1995, tôi gặp mấy sinh viên cũ cho biết anh Bùi Hồng Sĩ có về Việt Nam và gặp lại người ám sát hụt anh. Trước 1975 những nhóm quyết tử của Thành Đoàn gồm sinh viên học sinh đã ám sát các nhà văn, nhà báo như Từ Chung, Chu Tử. Hiện tôi còn giữ một danh sách cảnh cáo một số sinh viên các phân khoa mà ông gác dan trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trao cho tôi. trong đó có Ngô Thế Vinh, sinh viên y khoa. Bùi Hồng Sĩ, chủ tịch sinh viên niên Văn Khoa bị bắn nhưng chỉ bị thương. Rất tiếc Chu Tử đã chết hồi 1975; nếu ông còn sống đến 1985, đọc sách của Thành Đoàn kể lại thành tích, thì mới biết là mình đã nhận định sai lầm, vì ông viết trong Không Hận Thù rằng ông không tin cộng sản bắn ông, vì nếu cộng sản bắn thì phải là những tay súng chuyên nghiệp. Nhưng sự thực là học sinh, sinh viên trong tố ám sát đã bắn hụt vì họ không phải là những tay súng chuyên nghiệp. Sang Hoa Kỳ, gặp lại Bùi Hồng Sĩ, tôi hỏi và anh xác nhận có về gặp người đã bắn hụt anh. Tôi không hỏi thêm vì tôn trọng sự gặp gỡ này và muốn để cho những người trong cuộc thuật lại sự hòa giải giữa họ. Tôi cũng gặp lại Bs Ngô Thế Vinh, sau 1975 đi học tập cải tạo rồi được đi Hoa Kỳ. Anh nhắc tôi đọc bài anh viết “Rực rỡ mùa Thu” trong Thế Kỷ 21, số 70 tháng 11/94. Bài báo được viết dưới dạng sáng tác tiểu thuyết 3 nhân vật tiêu biểu cho ba thái độ trước vấn đề về hay không về giúp Việt Nam về y tế. Chính và Trường cùng thế hệ, đỗ bác sĩ ra trường trước 75, người đi tị nạn ở Hoa Kỳ, người ở lại Việt Nam, chỉ sang Mỹ lúc ung thư máu vào giai đoạn chót, nhưng khác nhau về thái độ của người thầy thuốc đối với bịnh nhân; Toàn con Chính, bác sĩ thuộc thế hệ sau gần gũi với Trường, bạn của bố, tình nguyện về Việt Nam chữa bệnh. Chính, chủ tịch hội Y Sĩ Việt Nam Hải Ngoại có một lập trường dứt khoát không làm gì hết cho tới thời hậu cộng sản. Hơn nữa còn phải ở thế tấn công vận động duy trì cấm vận, chống bang giao. Thái độ của Chính không biết đã gây tổn thất nào cho cộng sản, nhưng trước mắt Chính đã hy sinh cả bạn lâu năm của mình, cưỡng bách họ ra khỏi hội chỉ vì cái tội tiếp đón một nghệ sĩ từ Saigon qua bị chụp mũ thân cộng. Hành động của Chính gây một nỗi cay đắng của người tị nan cộng sản ngay từ 75 nay lại phải nghĩ tới một cuộc di tản lần thứ hai để tránh khỏi lằn đạn của chính những người bạn hướng tới từ phía sau lưng mình. Sinh viên Ngô Thế Vinh thoát được ám ảnh bị bạn học sát hại trước 75 vì chống cộng, nay bác sĩ Ngô Thế Vinh lại bị ám ảnh sát hại cũng bởi đồng nghiệp vì cổ võ về quê nhà thể hiện tinh thần trách nhiệm của người thầy thuốc là tiếp tay cho cộng sản. Ghi chú Chống cộng mà vẫn là cộng sản? 1. Điều đáng lưu ý là những người chống cộng lại sử dụng những phương thức tranh đấu, ngôn ngữ, luận điệu cộng sản mà họ đang chống lại. Ở Bắc Mỹ, thường thấy những tổ chức chống cộng ra thông cáo quyết nghị Toàn dân toàn thể các hội đoàn này nọ tố cáo lên án cộng sản…, hô khẩu hiệu đả đảo trong các cuộc biểu tình ngoài đường phố làm cho những người đã sống thời Việt Minh nhớ lại những gì đã thấy cách đây trên 50 năm. Những người chống cộng ở Liên Xô, Đông Âu đã hãnh diện, tự cho mình mới chống cộng thứ thiệt vì là con đẻ của chế độ, nhưng vẫn sử dụng ngôn ngữ, những khái niệm mang tính chất ý thức hệ cách mạng cộng sản, những luận điệu và đường lối chính thức của Đảng. Châu Ái trong bài “Sửa một từ để điều chỉnh một quan điểm” báo Sàigon Giải Phóng số 31615 ngày 19-2-87 nêu lên xu hướng tôn giáo hoá đảng mà theo ý ông cần điều chỉnh “ Đó là trước nay có những người, những nơi thường dùng chữ “đảng” đối với Đảng, ví dụ “lập công dâng Đảng”, “Chương trình văn nghệ mùa xuân dâng Đảng” Có nên nói và viết như vậy không?. Theo ý chúng tôi thì không nên. Đảng ta là một đảng cách mạng và khoa học, một thực tế vật chất chứ không phải một tố chức tín ngưỡng”. Nhưng trong thực tế từ tổ chức, thể chế đến tâm linh đều bày tỏ qua ngôn ngữ có tính chất tôn giáo như “Giác ngộ” vào đảng, “Tuyên thệ tuyệt đối tin Đảng”, “Trung thành”, “Vô cùng thương tiếc”, “đời đời nhớ ơn”, “sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”, “vĩnh viễn”, “muôn vàn kính yêu”, “nhiệt liệt”, “nhất trí” Về sách lược, cách mạng dựa vào bạo lực, coi như động cơ của lịch sử và do đó dùng bạo lực để thay đổi lịch sử. Dùng ngôn ngữ quân sự để diễn tả mọi sinh hoạt khác về văn hoá, kinh tế, chính trị Mặt Trận Tổ Quốc, Tiến quân vào sản xuất, Ra quân, chiến thắng, thắng lợi… Trong giao lưu văn hoá, hoặc sống lâu năm trong chế độ, ngay cả người không theo cộng sản cũng chịu ảnh hưởng sử dụng ngôn ngữ của chế độ. Tôi cũng không thoát khỏi ảnh hưởng này mặc dầu có ý thức khi viết, nói. Trong cuốn sách của TGM Nguyễn Văn Thuận Năm chiếc bánh và hai con cá Hoa Kỳ 1988 nói về thời gian 13 năm ở tù, ông dùng những từ ngữ, kiểu nói của chế độ một cách tự nhiên như chiến sĩ gác, chiến sĩ trực làm xong một việc dùng sợi dây điện để làm sợi dây mang Thánh Giá do một người gác tù cho. Trước 11 giờ đêm chúng tôi đã làm xong. Tôi mừng quá. Thắng lợi”. Người ta thường nói đi bộ cho hòa bình, cầu nguyện cho hòa bình… nhưng những người không cộng sản cũng dùng từ tranh đấu cho Hòa Bình, Thần học giải phóng, thay vì từ cứu rỗi của tôn giáo. Do đó, không lạ gì những người nhận là con đẻ của chế độ chưa thoát khỏi những dấu ấn của chế độ mà bây giờ họ phê phán chống đối. Một vài dẫn chứng rút ra từ sách báo do sinh viến trí thức từ miền Bắc định cư ở Đông Âu xuất bản “Huyện T ngày đó có phong trào nuôi vịt và làm vụ đông rất thắng lợi. Đấu tranh chính trị, vũ khí hàng đầu là thông tin, không có bom công phá cường quyền nào mạnh hơn nhận thức về quyền công dân, chiến sĩ dân chủ. Nói về “Đảng nhân dân hành động được thành lập ở Cộng Hòa Liên Bang Đức” “Đảng chủ trương đấu tranh ôn hòa bất bạo động, lấy nhân dân là nguồn sức mạnh to lớn và là đối tượng phục vụ chính của mình là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đấu tranh của đảng, tạo thành một sức mạnh tổng hợp để xây dựng lại một nước Việt Nam mới thật sự tự do dân chủ “, “Tuyên thệ dưới Đảng kỳ, tôi nguyện trung thành với Đảng NDHĐ sát cánh kề vai cùng đồng đội chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng để dựng lại nước Việt Nam thật sự phồn vinh và hùng mạnh.” Đọc những đoạn trên có thể thấy tâm tình thái độ của người bỏ đảng chống đảng có khác gì người vẫn theo Đảng đâu! Nếu đảng chỉ là một tổ chức hoạt động chính trị, không mang tính chất tôn giáo, thì ai thấy hợp cứ ghi tên vào, không hợp thì ra, cần gì phải tuyên thệ trung thành như đối với một lý tưởng mang tính chất tôn giáo? Trong Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên có đoạn “Cuộc xung đột vũ trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Saigon bắt đầu bằng những trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hanôi khuyến khích và yểm trợ đã mau chóng lớn lên thành nội chiến” tr. 14 Đó là quan điểm chính thức của Đảng Nhà Nước. Trong hồi ký, khi nói đến những Công An ngay cả cán bộ cao cấp Cục phó cục chấp pháp tác giả thường dùng ngôn ngữ hạ cấp bầy tỏ sự khinh bỉ của mình. Bọn chúng, y, hắn… Đây là một thói quan đã trở thành nếp ở miền Bắc. Sau 1975, ông Đào Duy Anh vào Nam thăm một số trí thức miền Nam. Khi nói chuyện, ông thường gọi Thằng Diệm, Thằng Thiệu. Chúng tôi chỉnh Thưa cụ, thưa Bác, trong Nam, một cách chính thức trên sách báo, khi nói tới những lãnh tụ miền Bắc bao giờ cũng gọi là “ông”, ông HCM, ông Phạm Văn Đồng… không bao giờ gọi là “thằng”. Có đăng hình thì cũng đàng hoàng không phải tranh vẽ châm biếm, đả kích. Ông Đào Duy Anh thú nhận “Tôi sống với họ lâu năm quá nên cũng bắt chước thói quen hạ cấp. Xin lỗi.” Tác giả Vũ Thư Hiên viết đại khái là lịch sự với y chỉ có thiệt trang 46. Kinh nghiệm của tôi thì khác. Nhưng nếu độc giả đã đọc Năm chiếc bánh và hai con cá sẽ thấy kinh nghiệm của TGM Thuận cảm hoá được những người canh giữ ông. Tôi cũng nhận thấy là ông Nguyễn Tường Bách, lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong hồi ký Những ngày lịch sử, nói về những ngày tháng 1945, vẫn gọi ông Hồ là Chủ Tịch HCM, Cụ Hồ. Nguyễn Văn Trung © Thông Luận 2007 [1] người thanh niên này viết thư cho tôi từ vùng Châu Đốc trước khi ra anh bỏ thành đi ra khu. [2] Đó là bản cảo Thằng Bờm và Thằng Cuội, sẽ được Thông Luận chuyển đến bạn đọc trong thời gian tới. Văn bản do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh đánh máy theo bản viết tay của tác giả và gửi cho Văn Việt. Bài cũng đã đăng ngày 04/09/2007, trang web Thông Luận. Comments are closed.
II Những lựa chọn căn bản Nguyễn Văn Trung “… Ở cái thời độc tài, bạo động chia rẽ vì ai cũng cho mình nắm được chân lý toàn diện, thiết tưởng cần đề cao sự hoài nghi, phản kháng và gặp gỡ, trao đổi, đối thoại…” Trong cuộc đời cầm bút của tôi gần 50 năm, đặc biệt thời kỳ 1955-1975, tôi đã viết khá nhiều, nhưng bị phê bình, đả kích, mạ lỵ, mạt sát cũng khá nhiều. Có lẽ tôi thuộc số ít nhà cầm bút ở miền Nam là kẻ bị cáo trạng nhiều hơn cả, từ tất cả các bên, các giới xã hội, chính trị, tôn giáo trong một tình cảnh VN bị phân chia thành hai miền thù địch chiến tranh và riêng miền Nam có phân hoá đố kỵ giữa các phe phái, giới nhóm với nhau. Tôi còn giữ được hầu hết sách báo phê bình đả kích tôi, góp lại thành một tập trên 500 trang mang tựa đề Người cầm bút, kẻ bị cáo». Tôi nghĩ rằng việc sắp xếp theo thời gian và bên cạnh nhau những bài đả kích tố cáo cá nhân tôi sẽ giúp người đọc nhận ra được tình cảnh chia rẽ, đố kỵ, oán thù không đội trời chung giữa những tập thể gọi nhau là đồng bào của một nước Việt Nam mến yêu có 4000 năm văn hiến; vì thực ra người ta tố cáo tôi chính là để tố cáo tập thể thù địch với người ta mà lại đem gán ghép cho tôi đấy thôi. Chẳng hạn có người lên án tôi là người chống Cộng tinh vi hay ngược lại tôi là người Cộng Sản, thân Cộng, có những lời nói hành động có lợi cho Cộng Sàn. Tôi là người Công giáo, bị người đồng đạo tố cáo, vu khống mạ lỵ là kẻ rối đạo, phản đạo, hoặc thân Cộng, Cộng Sàn. Hầu hết chỉ là những lời cáo gian, vì người ta chỉ nghe tin đồn, dư luận, ngay cả trong giới giáo sĩ, giáo phẩm, những người theo một đạo có giới răn rõ rệt về tội vu vạ, cáo gian, cấm xét đoán như lời Chúa dạy đừng xét đoán để khỏi bị phán xét»; nhưng đối với người không Công giáo, Cộng Sản và nhất là những người Phật giáo lại không tách tôi rời khỏi giới Công giáo, thậm chí coi tôi mới là người Công giáo đích danh, nên dễ nhìn những gì tôi viết liên quan đến Phật giáo đều mang tính chất xuyên tạc, đả kích nhằm tiêu diệt Phật giáo. Như vậy, xét con người trước dư luận, tôi không thể tự nhận diện được tôi là ai! Nhưng ở đây, trong ý định nhìn lại những chặng đường đã đi qua, nghĩa là những gì tôi viết liên quan đến các giới Việt Nam, tôi không phiền trách tố cáo lại ai, để phân trần tự biện minh, mà chỉ cố gắng tìm hiểu phần trách nhiệm của tôi đã gây ra mọi sự do chính những lựa chọn căn bản có ý thức của tôi và nhất là do những lệch lạc hay thiếu sót đã không thực hiện đúng, đầy đủ của những lựa chọn đó. 1. Lựa chọn về và ở lại Việt Nam Tôi nghĩ rằng nếu tôi có lo lắng, làm gì cho đất nước VN thì tôi phải sống ở VN trong bất cứ hoàn cảnh nào, dưới bất cứ chế độ chính trị xã hội nào vì đó là thời đại của tôi, tôi không có thái độ nào khác để lựa chọn và vì chỉ có một nước VN, một giáo hội VN ở tại VN. Xin nói ngay đây là một thái độ lựa chọn riêng của tôi và tôi tôn trọng những lựa chọn khác vì mỗi người có quyền lựa cho mình một lối sống, nơi sống mà mình cho là thích hợp hơn cả với hoàn cảnh riêng của mình. Năm 1955, tôi từ Âu châu về Saigon. Hồi 1967, nhiều giáo sư phái đoàn đại học Mỹ sang VN có đề nghị tôi sang Mỹ dạy đại học và sẽ lo chỗ ăn ở cho cả gia đình. Tôi không nhận. Hồi 1975, nếu tôi muốn, tôi cũng có điều kiện để đi Mỹ. Không những tôi không đi mà còn khuyến cáo họ hàng nội ngoại không đi. Đây là một đánh giá tình hình rất sai lầm mà tôi ân hận, vì sau mấy năm, họ hàng và cả con tôi có đứa quyết tâm ra đi vượt biên. Vào những năm 1990, bạn bè về VN, qua những trao đổi và xem những bài viết của tôi chưa xuất bản, đã nói thẳng thừng cho tôi thấy là tôi lạc hậu về nhận thức vì đã bị cắt đứt với các trào lưu tư tưởng thế giới sau 15 năm. Tôi định đi Âu châu một chuyến mấy tháng để có dịp tiếp xúc lại. Nhưng chuyến đi không thành. Cuối 1993, trách nhiệm làm cha mẹ buộc tôi phải đi theo diện bảo lãnh vì mấy đứa con quyết tâm đi sẽ không đi được nếu không theo cha mẹ, nhưng cũng có đứa quyết tâm ở lại. Khi tôi báo tin cho những bạn bè là ân nhân như một linh mục Dòng Tên, mà tôi đã quen qua những chuyến đi thăm những trại tị nạn dọc theo bức màn sắt phân chia nước Đức đã nuôi sống gia đình tôi bằng những colis thuốc mẫu để tôi khỏi phải mánh mung, hoặc những người đã can thiệp đưa tôi ra khỏi tù, tất cả đều không tán thành, coi việc ra đi của tôi như một đào ngũ, bỏ cuộc. Họ chỉ an tâm khi tôi cho họ biết đó chỉ là ra đi tạm thời vì tôi không bán nhà, và chỉ đi đi về về cho đến khi các cháu nội ngoại khôn lớn không cần ông bà chăm sóc nữa. Chính nhờ đi đi về về mà tôi hiểu được VN không có năm thực tế mà chỉ có một. Ngoài ra, trong thời gian ở nước ngoài, tôi có dịp tham gia những sinh hoạt của những trí thức bản xứ, nhóm khuynh tả tranh đấu xã hội đã cho tôi nhận ra những kiến thức thu lượm được và những dấn thân cụ thể vào các hoạt động tranh đãu xã hội thật cần thiết, ích lợi cho VN trong tình cảnh gọi là toàn cầu hoá hiện nay như tôi đã bày tỏ trong bài Toàn cầu hoá VN», đăng trong tạp chí Đi Tới, Montreal, Canada, số 10/1996 và đăng lại trong Nhận Định 10. Dĩ nhiên, những lựa chọn kể trên của tôi không tránh khỏi những hiểu lầm, dị nghị. 2. Lựa chọn văn chương dấn thân, triết học xuống đường Tôi đã có thể chỉ cầm bút biên khảo văn học, triết học không dính dáng gì tới ai, theo đúng tinh thần nghiên cứu truyền thống của giới đại học; và tôi đã có thể xuất bản những bộ sách biên khảo đồ sộ về một số vấn đề nào đó. Người đọc có thể đồng ý hay không đồng ý, nhưng chắc chắn không có chuyện mạt sát mạ lỵ. Nhưng thay vì làm biên khảo thuần tuý, tôi đã đưa văn chương triết lý vào thời cuộc,vào đời sống hằng ngày thậm chí liên quan đến chuyện làm tình, hay những cái thừa thãi của thân xác như đờm, giãi, nước miếng, nước tiểu… Trong một tình hình văn hoá còn bị những áp lực nặng nề của những lối sống rập khuôn conformisme về đạo lý xã hội, và trong một hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam Bắc, những tranh chấp đố kỵ ở miền Nam giữa các phe nhóm chính trị, tôn giáo, nên những gì đã xảy đến cho tôi là không thể tránh được và do đó tôi phải nhận lãnh thôi. Tôi là người của một tạp chí nghiên cứu, không phải theo kiểu hàn lâm viện, đại học, chỉ bàn những vấn đề muôn thuở, không dính dáng gì đến thời cuộc, nhưng là nghiên cứu gắn bó với thời cuộc, ngay cả khi đề cập đến những vấn đề thuộc lịch sử cũng nhằm phục vụ những mục tiêu hiện tại. Tôi có khả năng qui tụ một số người để làm một tạp chí. Chúng tôi chỉ cần đồng ý với nhau về một thái độ trí thức, một hướng chung trong tinh thần tôn trọng những lựa chọn dấn thân cụ thể về chính trị của mỗi người. Trong Văn học miền Nam -tổng quan, nhà xuất bản Văn Nghệ ở Hoa Kỳ, Võ Phiến lấy lại một ý của Nguyên Sa, cho rằng mảng văn học miền Nam trước 1975 có thể gồm 4 khối lớn nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, nhóm Đất Nước của Nguyễn Văn Trung, nhóm Bách Khoa của Võ Phiến và nhóm thứ tư gồm những nhà văn độc lập Sđd, trang 192. Quả là khối» Nguyễn Văn Trung có một tầm ảnh hưởng lớn. Cái ảnh hưởng ấy bắt đầu từ trước tờ Đất Nước ngay từ thời tờ Đại Học mặc dù Nguyễn Văn Trung không phải là chủ nhiệm tờ báo nầy chủ nhiệm là Cao Văn Luận. Tờ Đại Học tiếp tục xuất bản cho tới năm 1964 nhưng nó đã mất sức thu hút từ khi Nguyễn Văn Trung rời Huế vào Saigon nhiều năm trước Sđd, trang 199. Lối nhìn của Võ Phiến quá đơn giản, không phản ảnh đầy đủ, trung thực với thực tế và sử dụng những từ như nhóm, khối có thể gây hiểu lầm theo nghĩa bè phái. Ngoài ra, Võ Phiến không nhắc đến tờ Hành Trình chỉ ra có 10 số và không giấy phép, gọi là báo lậu, in ronéo, nhưng gây ra nhiều sóng gió, phản ứng tức thời từ nhiều phía ở miền Nam và cả ở miền Bắc và ở nước ngoài. 3. Lựa chọn viết tiếng Việt Đây là một lựa chọn mà ngay từ buổi đầu cầm bút, tôi đã coi là đương nhiên. Trong thời gian du học, tôi viết bài đăng trong các báo sinh viên và khi ở Bỉ, chúng tôi đã ra tạp chí Cùng học không phải chỉ để liên lạc mà còn nhằm trình bày những vấn đề chuyên môn. Chúng tôi thuộc thế hệ sinh ra trong thời thuộc địa, học tiếng Pháp và phải đọc tất cả bằng tiếng Pháp, nhưng nhận thấy người Việt mình không phải dùng tiếng Pháp để nói với nhau, ngay cả những vấn đề tư tương khoa học như sinh viên các nước Phi châu gồm nhiều thổ dân, thổ ngữ, không có tiếng nói chung nên buộc phải dùng chữ viết của nước thống trị để diễn tả. Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đô hộ Tàu, hàng trăm năm đô hộ Tây. Có hàng trăm miền đất đã bị đồng hoá, trừ Giao Chỉ vẫn còn là một nước riêng. Về văn hoá, thật khó có thể xác định được cái gì là VN, không phải là Tàu, Tây. Trước 75 và sau 75, tôi đã dự nhiều hội thảo về đi tìm bản sắc dân tộc, về truyền thống VN, ai cũng đồng ý cần tìm hiểu để xác định, bảo vệ, nhưng cụ thể là gì thì chẳng ai đồng ý với ai. Tuy nhiên, có một sự thật hiển nhiên xác định sự khác biệt là tiếng nói VN và trải qua lịch sử, người Việt vẫn giữ được tiếng nói riêng của mình. Đó là một thành tích lớn lao hơn cả. Về nước, tôi không tán thành chủ trương dùng tiếng Pháp ở Đại học Saigon. Vào năm 1957 Đại học Huế được thành lập, kêu gọi đường lối giảng dạy bằng tiếng Việt, không phải chỉ ở các ban Văn khoa, Luật khoa, mà cả ở ban Khoa học và Y khoa. Lúc đó tôi chưa nghĩ đến vấn đề phê phán các thể chế đại học, mà chỉ chú ý đến việc giảng dạy bằng tiếng Việt, tôi đáp lại lời kêu gọi của Đại học Huế. Như vậy, Đại học Huế đã nói với Đại học Saigon có thể dạy bằng tiếng Việt ở các ngành Toán, Khoa học tự nhiên, và nói với Đại học Hanôi, không phải chỉ có miền Bắc mới dùng tiếng Việt để giảng dạy ở đại học. Để củng cố phát huy những cố gắng diễn tả các ngành trên đại học bằng tiếng Việt, Viện Đại học Huế cho ra tạp chí và nhà xuất bản Đại Học. Mùa hè, họ tổ chức những đại học hè ở Đà Lạt cho sinh viên cả ba viện và giáo sư của họ tham dự. Về nhân sự, Đại học Huế gồm vỏn vẹn vài người độ 26-27 tuổi, vừa du học về, cấp bậc thấp nhất trong ngành đại học giảng nghiệm viên, phụ khảo cộng với một số học giả địa phương tất cả chỉ là một dúm nhỏ. Nhưng Đại học Huế là nơi gây cảm hứng, qui tụ những giáo sư, học giả ở Saigon và cả ở nước ngoài về giảng dạy hay gửi bài, bản thảo về đăng báo, in sách… Sau 1955, miền Nam vẫn giữ lề lối giáo dục theo Pháp nên cấp trung học có dạy Triết ở lớp cuối cùng, còn trên đại học thì có ban Triết học ở Văn Khoa và Sư Phạm, một phần nhằm đào tạo giáo sư Triết ở trung học. Mặc dù học theo chương trình Việt, nhưng không vì thế mà coi thường sinh ngữ. Nói chung sinh viên vào thời kỳ nầy đều có thể đọc sách báo bằng tiếng Pháp, Anh và cả tiếng Đức, xem như là một điều kiện bó buộc để tham khảo làm luận án. Do đó có những giáo sư viết sách triết học, giới thiệu các trào lưu, tác giả triết học Tây phương. Chẳng hạn Trần Thái Đỉnh ra sách Triết học hiện sinh, và theo Tràng Thiên bút hiệu của Võ Phiến, nhà xuất bản Thời Mới đã bán hết 2500 cuốn, vào thời điểm gọi là cao trào của hiện sinh Bách Khoa, số 289, 15/11/1969, trang 39. Trần Văn Toàn viết Tìm hiểu triết học Karl Marx, và theo Trịnh Viết Đức, phụ trách nhà xuất bản Nam Sơn, cuốn sách in 3000 quyển đã bán hết và phải tái bản 3000 cuốn cũng bán gần hết. Theo chỗ tôi biết, có lẽ có một vài bài điểm sách như tôi đã viết về cuốn của Trần Thái Đỉnh, nhưng không có ai phê bình, đả kích gì. Tôi cũng có nói đến hiện sinh, Marx, nhưng nếu tôi đừng ra khỏi giảng đường, vượt qua ngưỡng cửa đại học, đem triết học xuống đường, thì chắc chắn không bị những mũi dùi của thứ ngôn ngữ vỉa hè, thứ văn chương ngoài đường phố xuyên tạc, mạ lỵ, chửi bậy. Cuốn Ca tụng thân xác không bán chạy bằng Tìm hiểu triết học Karl Marx, nhưng được biết nhiều hơn ngoài giới đại học và độc giả có học. Thiệt ra lối đặt tựa như trên dễ bị hiểu lầm, nhưng người đọc đứng đắn vẫn nhận ra cách viết, quan niệm của tác giả là đưa triết học vào văn hoá VN, cố gắng dùng những từ ngữ VN để diễn đạt những khái niệm triết học phương Tây, nhằm đặt những vấn đề liên quan đến đời sống cụ thể hằng ngày của người đọc và tình cảnh thời đại của họ, như ông Tam Điểm bút hiệu của Nguyễn Tử Lộc, tốt nghiệp ĐHSP, giáo sư Trung học và đã viết một bài dài hơn 20 trang về Ca tụng thân xác đăng trong tạp chí Sinh viên và Nghiên Cứu Văn Học số 1, tháng 11/1967. Tam Điểm viết như sau Ca tụng thân xác của Nguyễn Văn Trung ngay sau khi xuất bản đã bị luồng dư luận báo chí công kích. Mũi dùi dựa vào tính chất khiêu dâm của tác phẩm, những đoạn văn nho nhỏ được trích dẫn để tố cáo tính cách tục ở ngòi bút của một giáo sư đại học có tiếng. Tác phẩm đối với quần chúng được biết và có khi chỉ được đọc trong ý hướng đó của dư luận mà thôi… Viết bài nầy, chúng tôi không đặt câu hỏi Ca tụng thân xác có khiêu dâm hay không hoặc luân lý của người viết cuốn sách đó là gì. Cũng không phải để binh vực hay kết án nó trong dự định của mình. Chúng tôi chỉ xét vấn đề cuốn sách nêu ra một vấn đề thật quan hệ cũng như giài pháp cho vấn đề mà ông Nguyễn Văn Trung đem lại có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh xã hội hiện tại; trong phần đó tính chất khiêu dâm và phương pháp hiện tượng luận cũng sẽ được đề cập tới…. Trầm trọng hơn nữa, không phải người ta chỉ tố cáo viết văn khiêu dâm mà còn bới móc đời tư, tố cáo tư cách trí thức, đạo đức của người cầm bút nhằm tố cáo thái độ chính trị nào đó mà họ gán cho tác giả. Bây giờ nhìn lại, tôi nhận ra rằng giả sử, thay vì viết tiếng Việt, tôi viết tiếng Pháp, thì dù cho tư cách tôi có thật sự bê bối, tôi cũng không thể là đối tượng của thứ chủ nghĩa văn chương hạ cấp, vì trong khuôn khổ văn hoá của nhiều nước phương Tây như nước Pháp, người tự hạ xuống viết thứ văn chương chữ nghĩa hạ cấp, chính là tự tố cáo và tự sát về văn hoá. Ngoài ra công luận xã hội cũng không chấp nhận những người viết thứ văn chương hạ cấp vì tự trọng của tập thể cộng đồng quốc gia. Cho nên dù đời tư của ra sao đi nữa, những người thù ghét lập trường chính trị của ông không bao giờ khui đời tư của Sartre ra để đả kích, mạt sát ông. Nhưng VN chưa phải nước Pháp hay nhiều nước Âu Mỹ khác. Nhóm Nguyễn Ngọc Giao chủ trương tờ Diễn Đàn ở Paris hiện nay, hồi còn làm tờ Đoàn Kết cũng thường phê phán chế độ trong nước. Phần viết bằng tiếng Pháp nói mạnh hơn phần viết bằng tiếng Việt. Nhưng những gì tôi nghe được từ dư luận hay trực tiếp từ một vài người lãnh đạo đảng về tờ báo đều xuất phát từ những bài viết bằng tiếng Việt. Lúc đó, tôi nghĩ một số ít đọc được bài bằng tiếng Pháp am hiểu chút ít văn hoá Pháp không thể có thái độ trí thức như những người chỉ có thể đọc bài tiếng Việt. 4. Lựa chọn một loại diễn từ Bài viết là một diễn từ. Có hai loại diễn từ chính. Loại thứ nhất nhằm trình bày một vấn đề làm sao tới gần được chân lý khách quan của thực tại hiện nay hay lịch sử. Loại diễn từ nầy trong ý hướng viết không phải để gửi cho mọi giới độc giả mà cho các độc giả thuộc nhiều giới văn hoá, xã hội, chính trị, tôn giáo khác nhau, đôi khi đố kỵ oán ghét nhau với hi vọng độc giả vượt khỏi những hạn chế, hạn hẹp lối nhìn của giới mình để tiếp xúc với tác giả theo lương tâm, trí thức riêng của mình. Một ý hướng viết như vậy dĩ nhiên đưa đến nhiều ngộ nhận, chống đối đả kích, vì người đọc chỉ phản ứng theo giới mình, chẳng những không tìm thấy lối nhìn của giới mình qua tác giả mà còn thấy lối nhìn của giới mình bị phê phán xúc phạm, nhất là trường hợp tác giả thuộc một giới khác, một giới bị mình đố kỵ oán ghét. Loại diễn từ thứ hai nhằm mục đích tìm ra những giải pháp cho một vấn đề đặt ra trong một trường hợp cụ thể. Loại diễn từ nầy đòi hỏi người viết những điều kiện khác hẳn thiết yếu liên hệ tới những người thuộc một giới hay những giới chính trị,xã hội, tôn giáo mà người viết muốn nêu vấn đề và đề nghị giải pháp. Như vậy, người viết buộc phải chấp nhận trân trọng những người mình muốn nói với, bất kể họ thế nào; nếu họ thuộc giới người đang cầm quyền, phải tỏ ra trân trọng quyền hành của họ, không thể một mặt nêu vấn đề, đề nghị giải pháp, đồng thời mặt khác làm như thể không thèm nói với những người mình muốn người ta chấp nhận giải pháp đề nghị và đem ra thực hiện, thậm chí còn bày tỏ thái độ khinh miệt hoặc hạch tội người ta. Thực ra, loại diễn từ nầy cũng nhằm nói với người đọc như cá nhân đọc theo lương tâm trí thức của họ vượt ra khỏi những hạn chế hay lối nhìn quan điểm của họ. Nhưng làm sao người đọc là một vài cá nhân có thể được thuyết phục và sau đó thuyết phục những người khác trong giới của họ nếu trước hết, người viết không chứng tỏ tư cách trí thức của mình để được họ phải lắng nghe,theo dõi những phân tách luận điểm trình bày của người viết? Phân tách, đưa ra luận điểm của người viết không phải để phê phán đả kích những lệch lạc, sai trái, mà trình bày những hình thành, diễn tiến xã hội hay lịch sử thế nào rút cục đã đưa đến tình trạng lệch lạc, sai trái mà người đọc có thể cũng nhìn nhận giữa họ với nhau. Nói cách khác, giải thích một đường lối chủ trương có thể tốt do thiện chí thuở ban đầu tại sao bây giờ lại thế nầy. Sự phân biệt hai loại diễn từ rất quan trọng, ví dụ những người giới Phật giáo phê phán gay gắt chế độ ông Diệm là Công giáo trị nhằm tạo đoàn kết lương-giáo mà không đếm xỉa đến người Công giáo, kể cả những người Công giáo của ông Diệm có thể chấp nhận đối thoại, đoàn kết được. Từ 1955 đến 1975, tôi lựa chọn loại diễn từ thứ nhất. Tôi chỉ bận tâm nêu vấn đề hay đúng ra là đặt lại vấn đề, đưa ra những nhận định, phân tích, phê phán nhằm gởi tới độc giả thuộc các giới chính trị, xã hội, tôn giáo khác nhau, đọc theo lương tâm trí thức của họ, bất chấp những chuyện nhạy cảm của những giới mà tôi đụng tới. Do đó, thật dễ hiểu tôi gặp chống đối từ phía những người đọc theo giới của họ. Tôi không thấy phiền hà gì trước những những phản ứng chống đối, vì tôi đã biết trước không thể tránh được. Tôi vẫn nghĩ tôi không viết làm gì nếu không buộc được người đọc phản ứng – phản ứng thế nào cũng được, miễn là có phản ứng, và tôi coi như thế là đạt được ý định viết vì đã gợi mở điều kiện để người đọc theo lối nhìn quan điểm của giới mình phải bộc lộ quan điểm của giới họ. Sau 1975, tôi không còn điều kiện viết những vấn đề liên quan đến thời cuộc và nói chung, trừ một hai bài viết đăng trên báo chí công khai gây phiền hà cho những người phụ trách điều hành, tôi giữ im lặng. Tuy nhiên tôi vẫn viết và viết nhiều theo loại diễn từ thứ hai. Không phải tự ý viết mà được yêu cầu viết. Tôi viết cho hai giới giới công giáo và giới đảng, nhưng không phải cho tất cả cho mọi người trong hai giới đó, mà chỉ một số người. Một vài vị lãnh đạo cơ quan đảng đề nghị tôi làm những phân tách kèm theo những biện pháp về một số vấn đề như phải tiếp thu thế nào những trào lưu tư tưởng Tây phương hiện sinh, cấu trúc, chính sách đối với trí thức cũ, đối với các tôn giáo, đặc biệt công giáo… và đòi hỏi viết theo lối nhìn, quan điểm của tôi. Nói cách khác, tôi vẫn có thể nói thẳng, nói thật những điều muốn nói. Những bài viết cũng theo yêu cầu chỉ để phổ biến hạn chế, lưu hành nội bộ trong giới lãnh đạo. Về công giáo, tôi viết cho một số trí thức, linh mục, và hạn hẹp hơn cho một vài giám mục, đặc biệt Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đã đề nghị tôi làm consultant riêng từ 1975 đến 1995. Ngoài ra, tôi cũng có viết một công trình nghiên cứu thuần tuý văn hoá VN không liên quan gì đến thời cuộc, nên không đụng chạm đến lối nhìn riêng của mọi giới. Những công trình nầy đến nay chưa xuất bản được cả ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên, khi xuất bản được, nếu có phản ứng, có thể sẽ chỉ là những góp ý mà thôi. Chứng từ Trước hết, xin giới thiệu bài “Trả lời phỏng vấn của báo Bách Khoa về Đại học hè Đà Lạt của tôi, và bài “Đại Học Đalat và kỷ niệm xa xưa” của Nguyễn Tiến Đức, hiện là giáo sư ở vùng Hoa Thịnh Đốn. Ông đã là tham dự viên của hai Đại học hè Dalat 1959, 60. Mấy năm ở Huế là thời kỳ có nhiều kỷ niệm đẹp nhất của đời tôi trong đại học và ngoài đại học. Nhưng điều xảy ra cho tôi cũng là những điều xảy ra cho người xứ Huế, rút cuộc tự ý hay bắt buộc phải bỏ Huế, và như vậy Huế không phải là nơi để ở mà là nơi để nhớ thương. Người được coi là ngôi sao sáng của Đại Học Huế đã buộc phải bỏ Huế, đúng hơn nữa bị đuổi ra khỏi Đại Học Huế Dòng Việt trang 143-6 và Lê Thanh Minh Châu trong Nhớ Đại Học Huế», Tiếng Sông Hương, Dallas 1998. Ai đuổi và tại sao, sự kiện ra đi của tôi đã gây những dư luận tai tiếng quái ác vẫn được nhắc đến như một bằng cớ để đả kích, mạt sát tôi cho đến hôm nay, mà tôi có dịp sẽ nói sau. Sau đó, xin giới thiệu hai bài trả lời phỏng vấn bằng tiếng Pháp năm 1990. Đó là bài phỏng vấn của một nữ sinh viên Pháp gốc Việt làm luận án tiến sĩ về đề tài Người VN du học tại Pháp; và bài trả lời người đại diện tổ chức phi chánh phủ France Libertés do bà Tổng thống Danielle Mitterand đứng đầu, nói về văn hoá Tây phương, nhân một dự định đi Âu châu không thành. Qua các bài phỏng vấn, tôi nói về nguồn gốc đào tạo, vốn văn hoá tôi tiếp thu được trong thời du học ở Âu châu. Những ai đã ở Âu châu, Pháp hay ở VN am hiểu văn hoá Âu châu, Pháp đều dễ dàng nhận ra nguồn gốc đào tạo tiếp thu khi đọc những gì tôi viết bằng tiếng Việt, đặc biệt liên quan đến vấn đề giao lưu, chuyển dịch, đưa những lối nhìn khái niệm từ bên ngoài vào văn hoá, văn học, hoàn cảnh xã hội VN. Nhưng rất tiếc tôi ít được phê bình đùng đắn do những người am hiểu, có trình độ như Tam Điểm đã phê bình Ca tụng thân xác, về khả năng thực hiện văn hoá giao lưu kể trên. Phần lớn các bài phê bình đều có tính xuyên tạc, chụp mũ, vu khống, do những người cầm bút học hành dang dở. Nhưng bây giờ đọc lại những bài phê bình thuộc loại đó, tôi nhận ra tôi cũng có trách nhiệm phần nào vì tôi đã chưa thoát, chưa chuyển hoá hoàn toàn lối nhìn, phương pháp khái niệm Tây phương vào văn hoá VN một cách sáng tạo làm cho những người kém am hiểu văn hoá Tây phương không thể nhận ra nguồn đào tạo, vốn tiếp thu từ bên ngoài, như trường hợp Hồ Biểu Chánh mà tôi đã nhận ra trong công trình tìm hiểu văn học miền Nam. Tiểu thuyết nào của Hồ Biểu Chánh lấy chất liệu cảm hứng từ nhà văn Pháp, mà nếu người đọc không am tường văn hoá Pháp sẽ tưởng rằng đó là những tác phẩm hoàn toàn Hồ Biểu Chánh. Khi nói viết cho những độc giả đọc theo lương tâm trí thức của mình, không phải cho các giới tôn giáo, chính trị, xã hội, thực ra tôi đã theo cách phân biệt của Sartre, viết cho des lecteurs chớ không phải cho le public. Vì thế tôi không để ý đến phản ứng của các giới, đôi khi còn chọc giận các giới, bất kể là Công giáo, Phật giáo, Cộng sản…mà tôi cho là bảo thủ, lạc hậu, chật hẹp, vì chỉ biết tìm mình qua kẻ khác tìm được thì khen, không tìm được thì chê. Tôi có nhiều kinh nghiệm về điều nầy. Chẳng hạn như Giám mục Phạm Ngọc Chi ra Huế chất vấn Linh Mục Cao Văn Luận tại sao mời tôi là kẻ rối đạo dạy học chuyện này do LM Luận kể lại với tôi, nhưng khi Hội đồng giám mục trao lại quyền điều hành cho các linh mục người ngoại quốc thì đã bị nhiều phản đối mà GM Chi là bị nhắm vào. Tôi tích cực chống lại quyết định đó tại tòa khâm sứ và đã góp phần vào việc bải bỏ quyết định trên. Đức cha Chi lên tận nhà tôi bày tỏ lòng cám ơn bây giờ mới hiểu thầy là người tha thiết bênh vực quyền lợi giáo hội Việt Nam. Tôi đã viết đâu đó trước 75, tự coi mình là người không xếp hàng ngay cả với những người không xếp hàng, do đó tôi không quan tâm đến những chống đối và coi đó là đương nhiên. Tôi có ý định tích luỹ nội dung những hình thức chống đối làm chất liệu suy nghĩ thành sách vè đề tài Sự ngộ nhận giữa người với người qua chữ viết. Sau 75 tôi không thể viết cho những độc giả đọc theo lương tâm trí thức của mình, nhưng lại có dịp đưa tôi trở lại cảm thông chia sẻ lối sống, cảm nghĩ của những người thuộc các giới xã hội, tôn giáo mà trước đây tôi không lưu tâm, coi thường vì cho là bảo thủ, lỗi thời, chật hẹp… Hồi ở Sở Công An Thành phố Nha Cảnh Sát Đô Thành trước 75, ban sớm mai, thỉnh thoảng tôi mới nghe được tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng về, rất nhỏ, không rõ từ nhà thờ nào gần đó. Tôi bỗng thấy thèm muốn đi xem lễ ở nhà thờ của những đám đông giáo dân mà trước đó tôi thường xa lánh, bởi ưa đi xem lễ nơi các nhà nguyện ít người, phần đông là trí thức… Rồi một ban sáng khác, tôi được nghe tụng kinh Phật, giọng miền Trung, từ một cachot nào đó, giọng thật truyền cảm của ông đại uý chồng cũ của đào Thanh Nga. Ông bị tình nghi có dính líu tới vụ sát hại vợ ông! Tôi không hiểu lời kinh, nhưng chỉ nguyên giọng tụng niệm đã đưa tôi vào tình tự Phật giáo mà tôi không tìm được qua các sách báo Phật giáo mà tôi đã đọc. Sau khi được thả, tôi thường đi lễ sớm ở các nhà thờ họ đạo. Tôi đến chùa Ấn Quang nhờ các nhà tu quen biết gốc miền Trung tìm dùm các băng cassette bài kinh, nhưng ít ai dám thu băng vào thời nầy. Mãi khi sang Bắc Mỹ, tôi mới tìm được. Tôi nhớ đã được xem một phim trong đó có cảnh Chúa đang bị đóng đinh trên thập tự giá nhưng còn muốn làm tình với mấy người đàn bà, gây xúc động, phản đối trong số khán giả Ki-Tô giáo. Tôi không tán thành lối sáng tác nghệ thuật dành cho những khán giả xem với lương tâm trí thức của họ, bất chấp những nhạy cảm của tôn giáo mà xét về một mặt, phải tôn trọng ngay cả những niềm tin, lối sống đạo truyền thống bị coi là bảo thủ. Tôi muốn hỏi những người viết truyện, đóng phim kể trên, giả sử họ có những bà mẹ, người chị vẫn còn giữ đạo theo lối truyền thống có đau lòng không khi xem phim của họ, và nếu có, họ có dám xúc phạm đến những người mẹ người chị của họ hay không? Cũng trong tinh thần đó, tôi không tán thành lối viết xúc phạm đến tôn giáo của nhà văn Salman Rushdie khi ông trả lời phỏng vấn mà có lẽ trước 75 tôi thích thú Phép lạ thực sự của văn học là nhờ văn học, chúng ta không thuộc về ai cả, không ai chiếm đoạt được chúng ta. Trách nhiệm duy nhất của chúng ta là nói lên điều chính chúng ta thấy cần phải nói. Những người không ưa chúng ta chỉ việc tìm đọc sách khác. Le Nouvel Observateur, số 1682, tháng 9/1996, Trong bài trả lời phỏng vấn liên quan đến văn hoá Tây phương, tôi gợi ý việc tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng Marxisme, Léninisme xuất phát từ triết học. Ánh sáng cách mạng Pháp, xu hướng 1793 mang tính chất chống tôn giáo, giáo sĩ trị… đã có những hậu quả tai hại thế nào về văn hoá, chính trị, và đặc biệt đã có những hạn chế nào trong lãnh vực văn hoá do tình trạng độc quyền văn học của văn hoá Pháp ở VN, một nước thuộc địa của Pháp. Mấy ý nầy tôi đã khai triển hơn trong một buổi nói chuyện về phương pháp luận cho lớp chuẩn bị tiến sĩ của trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh. Chị Tôn Nữ Nha Trang, một Việt kiều ở Mỹ, làm luận án về văn hoá VN có mặt trong buổi hội thảo. Tôi đã nhờ chị trả lời câu hỏi Giả sử VN bị người Anh thay vì bị người Pháp đô hộ thì nền văn học VN có đi vào một hướng khác, ảnh hưởng đến tư tưởng cách mạng chính trị, vì nước Anh không có một truyền thống giống nước Pháp. Bài nói chuyện nầy sau đó đã được đăng trong tạp chí Văn Học do Nguyễn Mộng Giác chủ biên, tựa đề là Khái niệm và thể loại văn chương» Văn Học số 100, tháng 8/1994. VN vì chịu sự khống chế của nền văn hoá Pháp nên kể như không có giao lưu văn hoá với văn hoá văn học khối Anglo-Saxon và cả văn hoá Nga. Chỉ về sau, dưới chế độ Cộng Sản, văn hoá Nga qua văn hoá Liên Xô mới du nhập VN do các sinh viên du học hay đọc sách báo Nga tại VN. Văn hoá Nga không có truyền thống chống tôn giáo, trái lại dựa vào tôn giáo, đặc biệt về văn học và ngôn ngữ học. Sự tiếp thu văn hoá Nga đã tạo điều kiện cho trí thức VN có dịp tìm hiểu văn học, ngôn ngữ VN qua mảng văn học bình dân, đại chúng là mãng quốc ngữ và nôm đạo từ thế kỷ 17, trong khi trí thức ở Saigon trước 75 hay ở Pháp chỉ được thông tin bằng tiếng Pháp qua các nhà văn hoá ngôn ngữ Đông Âu. Với những lối tiếp cận từ nền văn hoá Nga, tôi đã khám phá ra mảng văn học đại chúng dân gian của người công giáo VN. Mảng văn học đó chứng minh một cách không thể chối cãi người Công giáo đã là VN qua các kinh sách tuyên vận bằng chữ nôm ngay từ thuở ban đầu đạo Chúa du nhập VN từ thế kỷ 17. Điều trớ trêu là một số trí thức Công giáo chuyên về ngôn ngữ và văn học và một số trí thức từ miền Bắc vào cùng nhau nghiên cứu tiếng Việt dựa vào vốn tài liệu quốc ngữ đạo và nghiên cứu mảng văn học đại chúng Công giáo, đều nhìn nhận và ca tụng một số văn bản đặc sắc nhất của mảng văn học đó. Nói tóm lại, quãng từ 1985, tôi bắt đầu lưu tâm tìm hiểu một cách trân trọng tâm tình giới Công giáo được biểu lộ qua các tài liệu nôm, quốc đã viết được một số công trình biên khảo cho tất cả giới Công giáo đọc, không phải chỉ cho một số độc giả đọc theo lương tâm trí thức của họ và cho các giới khác đọc, đặc biệt cho giới còn chịu ảnh hưởng lối nhìn cách mạng Cộng Sản, còn rất nhiều thiên kiến đố kỵ người Công giáo. Chính trong ý định viết cho các giới đọc, đặc biệt để nói với giới còn nhiều thiên kiến đố kỵ với Công giáo, và đề ra giải pháp và cùng với họ tham gia thực hiện giải pháp bằng một vài việc cụ thể mà tôi đã biên soạn một số công trình về Công giáo trong cộng đồng dân tộc». Nhưng cuối cùng mọi việc đều dang dở, chưa thực hiện được trọn vẹn. Cho tới bây giờ, tôi vẫn không hiểu những lý do và những phiền hà tôi đã gặp, hỏi ngay những người có thẩm quyền trực tiếp liên hệ vẫn không được trả lời. Tôi nghĩ rằng có chuyện nội bộ trong cuộc tiến hành đổi mới và những việc làm được yêu cầu, đề ra ở cấp cao như Ban kinh tế Trung ương Đảng, nhà xuất bản Sự Thật của Trung ương Đảng, Ban Tôn giáo chính phủ…; về phía công giáo, Tòa Tổng giám mục, một số linh mục quản hạt, chính xứ, không được lòng nhà nước. Hai năm sau, một biên soạn khác cũng về đề tài Công giáo được thực hiện, có lẽ vì ở cấp dưới và chỉ có một cấp đại học. Bên cạnh bài trả lời về văn hoá Tây phương, tôi xin nói qua về một vài thư từ qua lại không đầy đủ, giữa ông Võ Oanh, Trưởng ban kinh tế Trung ương Đảng, ông Nguyễn Linh, Phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật ở miền Nam, và tôi. Gốc gác của những liên hệ giao dịch qua hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An. Tôi quen biết một số vị ở miền Bắc như Võ Oanh, Thép Ma đã qua đời, Thiết Vũ qua hội nầy. Tôi liên lạc với bạn bè ở Pháp, đặc biệt anh Nguyễn Đức Nhuận, viết cho Le Monde Diplomatique về VN, trước 75, có thời anh về nước dạy Triết ở Đại học Văn Khoa Saigon. Anh Nhuận có cho tôi biết danh tánh của một số trí thức Pháp đã can thiệp cho tôi ra khỏi tù và đề nghị tôi viết thơ cám ơn họ. Qua anh, tôi liên lạc được với các tổ chức phi chánh phủ và gởi cho tôi những sách báo về kinh tế, lịch sử, chính trị, triết học, tôn giáo… Tôi cũng nhận được tạp chí Esprit mà tôi có gần đủ bộ trước 75. Về đề nghị của nhà xuất bản Sự Thật, bạn bè ở Paris cho biết họ muốn có những tín hiệu cụ thể về quyết tâm đổi mới trong lãnh vực khoa học, tôn giáo. Do đó ông Nguyễn Linh đề nghị tôi biên soạn để xuất bản một quyển sách về tôn giáo. Tôi nói với ông Nguyễn Linh nếu thực hiện được một tọa đàm về quyển sách nầy một cách nghiêm chỉnh thì đã là một tín hiệu đáng tin cậy rồi. Tôi sẽ nói sau về nội dung cuốn sách và buổi tọa đàm nầy. Tôi nghĩ rằng có thể buổi tọa đàm nầy là nguyên nhân làm ngưng trệ các cố gắng đổi mới hay là chết» vào thời đó. Trong buổi tọa đàm nầy, những trí thức do tôi mời đều dè dặt, ít nói, nhưng những người của nhà xuất bản Sự Thật có người phát biểu mạnh bạo về đòi hỏi đổi mới. Nói cho đúng, ở VN, bên nầy hay bên kia sử dụng những cặp đối lập tiến bộ/bảo thủ, tả/hữu về chính trị có lẽ không xác thực, vì những đối lập đó thiếu cơ sở về giai cấp xã hội mà chỉ có những tranh giành quyền hành chính trị giữa các phe nhóm. Tôi biên thư cho ông Vỏ Oanh không được trả lời, sau đó ông nhờ người vào nói với tôi rằng thư từ giữa ban bí thư cũng bị kiểm duyệt, và ông Võ Oanh bị khó khăn vì bị nghi theo phe nầy phe nọ. Củng có khó khăn phức tạp về nhiều thể chế chồng chéo ít nhiều có quyền hành, đảng, chính phủ, mặt trận, công đoàn. Những việc liên quan đến tôn giáo thường phải thông qua Mặt trận, Ủy ban Đoàn Kết. Việc chúng tôi cộng tác với nhà xuất bản Sự Thật, Ban tôn giáo của chính phủ thực sự qua Mặt Trận, bộ phận phụ trách tôn giáo lại làm công khai, lộ liễu. LM Nguyễn Hưng có đóng góp vào bản thảo của tôi, đứng ra vận động các linh mục góp tiền, vàng trong kỳ cấm phòng hàng tháng của các linh mục để in, được phép và có sự cổ vỏ của TGM Nguyễn Văn Bình. Khi tôi bị Công an kêu lên làm việc vài buổi không hề nhắc tới những vi phạm đó mà chỉ yêu cầu tôi giải thích nguồn gốc, diễn tiến sự việc như thể tôi chủ động và buộc tôi đi thu hồi các bản thảo in ronéo nội dung buổi tọa đàm. Họ chỉ yêu cầu về phía tôi mà không đụng gì đến phía nhà xuất bản Sự Thật, vì chắc nhà Sự Thật không phổ biến, trong khi bạn bè tôi đã chuyền cho nhau đọc, đem photocopie ra, và như vậy là đã vi phạm qui định phổ biến hạn chế, lưu hành nội bộ. Bây giờ nhìn lại chuyện hồi đó, nếu chúng tôi thận trọng tuân giữ một số qui định, mặc dù không đồng ý như tôi nói trong bài phỏng vấn, có thể cuốn sách đã được xuất bản trong thời điểm đổi mới còn sôi nổi, chưa có những biến cố Ba Lan, Đông Âu, và có thể có những vang dội trong nước lẫn ngoài nước. Ngày nay, nếu có xuất bản, nhiều phần đã trở nên lỗi thời và chỉ còn để ghi lại một cố gắng đổi mới về tư tưởng tôn giáo đã thất bại. Giáo sư Luguern, người phụ trách tổ chức France Libertés ở khu vực Đông Nam Á đã đề nghị tôi cho phép đăng bài phỏng vấn trên báo Pháp. Tôi không thuận vì tôi không muốn tạo cơ hội cho những ai ở hải ngoại chống chế độ tại VN một trí thức như ông Nguyễn Văn Trung, ở lại VN, đã sẵn sàng đáp lại lời yêu cầu của chính giới lãnh đạo cao cấp, nhưng rốt cuộc chẳng làm được điều gì ra hồn và chỉ chuốc lấy những phiền hà, thế thì những người ỏ nước ngoài hi vọng làm được gì đáp lại lời kêu gọi VN tham gia xây dựng đất nước! Cũng trong thời gian nầy, giáo sư Phan Công Chánh, dạy Triết ở Đại học San José về thăm nhà, ngỏ ý nhờ tôi thực hiện một vidéo giới thiệu những công trình nghiên cứu văn hoá VN từ 75. Nhưng rồi trước khi GS Chánh trở lại Hoa Kỳ, tôi đã yêu cầu giáo sư huỷ bỏ băng vidéo cũng vì lý do như trên. Nói chung, tôi đã không lên tiếng, trả lời phỏng vấn hay cậy nhờ cơ quan nầy tổ chức nọ can thiệp vào những khó khăn thử thách mà tôi đã gặp từ 75 cho đến nay năm 2000 để giới lãnh đạo phải trực diện với những gì đã xảy ra mà không thể mượn cớ, dựa vào bất cứ lý do ngoại tại nào nhằm biện hộ cho những việc làm dang dở, thất bại, và do đó phải nhận trách nhiệm về phần mình. Bây giờ, có phổ biến công khai bài phỏng vấn chỉ là để nhắc lại một sự kiện đã qua trên 10 năm để đáp lại lời yêu cầu của GS Luguern và để các độc giả người Việt nói tiếng Pháp thuộc thế hệ trẻ có thể biết được. 5. Lựa chọn một thái độ trí thức Nói về người trí thức và thái độ trí thức, vẫn thường có những phát biểu tranh luận bày tỏ những cách hiểu khác nhau. Tôi tôn trọng cách nhìn của giới khác. Phần tôi, tôi có cách hiểu người trí thức và biểu lộ thái độ trí thức theo lối nhìn của tôi. Có người không đồng tình phê phán và tôi tôn trọng quyền phê phán đó. Tôi hiểu người trí thức không nhất thiết phải là người có kiến thức tiếp thu được ở nhà trường cấp đại học hay hậu đại học vì có những người có những kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách báo, kinh nghiệm tiếp xúc… Thực ra điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức mà là thái độ trí thức đối với chính cái vốn kiến thức và nhất là đối với những vấn đề cuộc sống trước mặt đặt ra. Trong gần 50 năm cầm bút, tôi đã bày tỏ nhiều lần ý kiến của tôi về vấn đề người trí thức và thái độ trí thức, chẳng hạn viết bài phân tách Sứ mệnh người trí thức», sau đó là bài Đọc cuốn Đi tìm một căn bản tư tưởng của ông Nghiêm Xuân Hồng» Nhận Định 2, bài Người vong bản trí thức», trong Nhận Định 3. Hồi 1966, viết bài phỏng vấn của nhật báo Xây Dựng ngày 8-8-1966 mà tôi nhắc lại ở đây trong phần Chứng từ. Sau 1975, tôi viết một bài dài đáp lại yêu cầu cho biết ý kiến về chính sách đối xử với trí thức chế độ cũ. Trong bài phân tách nầy, tôi đã sử dụng lý luận của một vài người thiên tả hay Mác xít như Paul A. Baran và A. Gramsci 1980. Tôi sẽ nhắc đến bài nầy trong phần 2 1975-1995 của tập Nhìn lại những chặng đường đã qua. Năm 1993, tôi lại nói về trí thức, lần nầy chú trọng vào người trí thức trong đảng Cộng Sản đảng có trí thức hay không trong bài viết đáp lại cuộc tham khảo ý kiến một số trí thức thành phố về đổi mới, trí thức. Nhìn lại những chặng đường đã đi qua, ở đây chỉ xin nhắc tới 10 tập Nhận Định, trong đó 6 tập đã xuất bản trước 1975, 3 tập viết trong thời 1975-1995, chưa xuất bản được và tập 10 1994-1998 gồm một số bài viết ở nước ngoài và trong thời gian về nước. Vào những năm cuối cùng trước 1975, tôi viết mục Bút ký hằng tuần cho nhiều nhật báo Tin Sáng, Hòa Bình, Dân chủ mới… Loạt bài nầy khá nhiều, chưa được gom lại xuất bản trong Nhận Định trước 75, và chính loạt bài nầy mới bộc lộ rõ hơn cả một thái độ trí thức đối với thời cuộc. Thái độ trí thức được bày tỏ trong các tập Nhận Định đúc gọn như thể một tuyên ngôn đăng nơi trang bìa 4 của tất cả các tập Nhận Định Triết lý là một nỗ lực nhận thức về cuộc đời. Nhưng bởi cuộc đời là một thực tại vô cùng phong phú, sống động và con người luôn luôn phải sống ở một vị trí nhất định mà nhìn cuộc đời cho nên ý hướng nhận thức của người bao giờ cũng chỉ lãnh hội được một vài khía cạnh trong muôn ngàn của cuộc đời đó. Như thế cuộc đời toàn diện, chân lý tuyệt đối trở thành một nhãn giới mà con người càng vươn tới, nhãn giới càng lùi xa… Và triết lý có nghĩa đi tìm hơn là tìm thấy. Đó không phải là lý do để thất vọng, vì nếu sự thật đã tìm thấy, sẽ không cần đi tìm nữa, đằng khác cái say mê cũng không phải hẳn ở chỗ tìm thấy nhưng ở chỗ đang tìm. Trong viễn tượng đó, không nên đưa ra những phán đoán thanh toán vấn đề, chấm dứt cuộc tìm hiểu, nhưng chỉ nên có những Nhận Định, nhận những ý kiến đề nghị để trao đổi, đối thoại với những bạn đường khác cũng đang đi tìm một mình. Ở cái thời độc tài, bạo động chia rẽ vì ai cũng cho mình nắm được chân lý toàn diện, thiết tưởng cần đề cao sự hoài nghi, phản kháng và gặp gỡ, trao đổi, đối thoại. Tác giả muốn đứng ở phía những người yêu chuộng sự trao đổi đó. Điều tôi thực sự lo ngại xảy đến cho tôi là sự lão hoá trong sinh hoạt suy tưởng. Lúc còn trẻ, tôi biết một số đàn anh vào tuổi 60,70 đã trở thành bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời mà không hay, vì những người thuộc các thế hệ đàn em kính trọng tuổi già không dám nói ra ngay trong chỗ riêng tư. Bây giờ tôi ở lứa tuổi 70, tôi cũng thấy một số người cùng lứa tuổi đã lão hoá trong sự nghiệp cầm bút của mình. Tôi tự hỏi còn tôi thì sao? Tôi mong được các người cầm bút thuộc các thế hệ đàn em nói thẳng với tôi. Tuy nhiên, một cách chủ quan, tôi cảm thấy chưa đi vào xu hướng lão hoá về tư tưởng một cách nghiêm trọng, có lẽ vỉ hai lý do sau đây Tôi tra hỏi cuộc đời, nhưng cuộc đời của tôi cũng xuất hiện như một tra hỏi không ngừng. Trong chủ trương tiếp cận với thực tại, tôi cho rằng chỉ có thể từ một vị trí và do đó chỉ có thể nhìn thấy một khía cạnh của thực tại. Nếu thay đổi vị trí sẽ nhìn thấy một khía cạnh khác và không bao giờ lãnh hội được thực tại một cách toàn diện, hoàn tất. Lối nhận thức đó đưa tới một quan niệm tương đối về chân lý và một thái độ khiêm tốn không bao giờ được tự cao, tự mãn. Những nhận định từ những cái nhìn theo khía cạnh liên tiếp được đề nghị với người khác như bạn đường để gợi ý, thúc đảy họ thực hiện cuộc hành trình tư tưởng của chính họ. Ngay cả tư thế người dạy học, tôi vẫn cố gắng tránh sự áp đặt. Chị Hồng Khắc Kim Mai, một sinh viên cũ, gần đây có cho tôi biết một sự việc. Tôi đã cho điểm cao bài thi của chị, và chị đã hỏi tôi tại sao. Chị đã thuật lại câu trả lời của tôi lúc đó Mấy đứa kia trả bài như con vẹt, đôi lúc còn hiểu sai và xuyên tạc nữa. Còn cô ít nhất cô đã tỏ ra honnête, không học bài và đã trám vào bằng một câu chuyện với những lý luận không ra gì nhưng mà hay. Ít nhất cô cũng biểu lộ được một cá tính đặc biệt. Tôi hay qui tụ bạn bè cầm bút thực hiện một công trình chung, như ra một tạp chí. Trong trường hợp nầy, chẳng qua cũng như trải ra một chiếc chiếu, ngồi chung với nhau trên một đồng thuận nào đó, vào một thời điểm nhất định trong tinh thần tôn trọng những xác tín, lựa chọn cụ thể của từng người. Sự qui tụ đó không có nghĩa một mưu đồ thành lập nhóm nầy nhóm nọ, để xưng tụng lẫn nhau. Tôi nhìn nhận có những người trẻ hơn, chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng và lối viết của tôi, nhưng tôi không bao giờ xem họ là đồ đệ. Họ trưởng thành và đôi khi cũng bày tỏ công khai những phê phán, chứng tỏ họ đã vượt qua các đàn anh của họ. Tôi vẫn đặc biệt ghi nhớ và hãnh diện 6 số Sinh Viên do những người đã tốt nghiệp đại học thực hiện vào những năm 1966-68 ở Saigon, nhất là số 6, số chót dành cho việc phê phán các đàn anh của họ về triết học, lập trường xã hội, do những cây bút trẻ sinh viên thời đó Trần Triệu Luật, Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Trọng Văn… Tự bản thân tôi, tôi luôn bất mãn với những gì mình viết ra, thích thú trong việc đi tìm khai phá hơn là tìm thấy và an nghỉ trong những cái đã tìm thấy. Vì vậy, nếu không có đồ đệ để được xưng tụng, làm sao có thể bám víu vào quá khứ để trở nên lạc hậu lỗi thời? Nhưng lý do quan trọng hơn là số người cầm bút điểm sách, phê bình tỏ ra có hiểu biết, và nhìn nhận một cách nghiêm chỉnh thật ít so với đa số thích đả kích, mạt sát, chửi rủa đôi khi quá thậm tệ… Một vài người khác cũng có thái độ tương tự Mai Thảo, thường không bị một niềm tin, xác tín tôn giáo hay ý thức hệ nào chi phối. Trái lại, tôi thực sự gặp chống đối, phủ nhận nơi những người phê bình Nhận Định thuộc giới những người có niềm tin tôn giáo Công giáo hay Phật giáo hay ý thức hệ Mác xít, vì không thể chấp nhận một thái độ trí thức dựa trên quan niệm tương đối về chân lý. Nhận Định I tái bản đến lần thứ tư, tôi đã bỏ bài Từ bi Phật giáo, Bác ái Công giáo» đã in trong lần xuất bản đầu tiên, vì sự chống đối của Phật giáo, chẳng hạn qua bài Đạo Phật không có từ bi?» hay của Đường Minh trong tạp chí Nhân Loại, cả sự chống đối của Công giáo qua bài kiểm thư của tạp chí Ra Khơi, tháng 1,2/1958, cơ quan ngôn luận in ronéo của Đại Chủng Viện Bùi Chu. Nhận Định 2, tái bản lần thứ ba, gặp sự chống đối mãnh liệt của Hà Nội sau lần xuất bản đầu tiên về văn học và triết học Mác xít qua các bài của ông Nguyễn Văn Hoàn và cuốn sách của ông Trần Văn Giàu Nhận định về quyển Nhận Định, một tác phẩm duy linh nhân vị nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác xuất bản ở miền Nam nhà xb Sự Thật, Hà Nội, 1962. Nhận Định 4 tập trung các bài về chủ đề Chiến tranh, Hòa bình, Cách mạng. Qua bài Đọc Nhận Định 4 của NVT» của Tam Thanh, đăng trong tạp chí Trí thức mới số tháng 6 12/1966, xuất bản trong khu. Bài nầy nhẹ hơn so với bài của Trần Văn Giàu và các tác giả ngoài Bắc. Tôi sẽ trở lại những phê bình của giới Cộng Sản trong một chương sau. Sau đây tôi xin giới thiệu hai bài điểm sách về Nhận Định 1 mà tôi xem là đã hiểu đúng ý hướng, chủ đích viết Nhận Định của tôi. Nhận Định của Nguyễn Văn Trung Nguyễn Du xuất bản Gồm những bài đăng trên tạp chí Sáng Tạo, Bách Khoa, Gió Mới và Thông Cảm cơ quan của một nhóm sinh viên Công giáo, tập sách trình bày một số vấn đề văn chương, giáo dục, triết lý và tôn giáo, theo nhận định riêng của tác giả. Điều nầy được ghi rõ trong lời mở đầu biểu lộ một nỗ lực giải quyết những thắc mắc của một người trong một hoàn cảnh riêng biệt của mình. Người đọc đã có một ý niệm rõ rệt về dụng ý của tác giả. Ông không thuyết phục, đòi hỏi một sự thống nhất quan điểm, cũng không có tham vọng xây dựng một phương pháp nhận định gương mẫu, duy nhất. Trái lại, ông chỉ chủ quan phân tích một số vấn đề trước hết thiết yếu đối với riêng ông và không chờ đợi gì hơn là sự thông cảm, sự chú ý, và những ý kiến chúng ta sẽ phát biểu về những vấn đề đó. Ý hướng triết học do quan niệm nầy được ông giải thích như một hiện tượng gắn liền với đời sống, và sẽ mất hết ý nghĩa khi tách rời khỏi đời sống. Triết lý thể hiện nỗi lo lắng tìm kiếm không ngừng, không nghỉ của con người. Đó là một thái độ đúng. Và tiến bộ nữa. Chính nhờ có thái độ nầy tác giả có được một cái nhìn trong sáng, một lối nhận định linh động, trực tiếp về chân tướng và bản thể sự vật. Không phải do nơi kiến thức sâu rộng, học vấn uyên bác, mà bởi lòng chân thành nơi con người tìm thấy sự thực, phô diễn dưới muôn vàn hiện tượng khác biệt và giá trị tương đối. Lòng chân thành ở đâu, sự thực và chân lý ở đó. Tác giả đã có sự chân thành nầy khiến cho tác dụng của tập sách không nằm trong những ý được nêu ra, mà trong cái thái độ của người đã nêu ra những ý kiến đó. Một vài vấn đề khác biệt, lẻ tẻ đề cập đến những lãnh vực quá ư rộng lớn, chưa thể xác định được ở đây, một nhà triết học lỗi lạc, nhưng đã giới thiệu được với chúng ta một con người có một đời sống tinh thần phong phú, một niềm tin mãnh liệt và một căn bản vững vàng. Trích trong mục Qua các bộ môn văn nghệ», tạp chí Sáng Tạo. Đọc sách Ông Nguyễn Văn Trung, giáo sư Triết học thường cộng tác với các báo Sáng Tạo, Bách Khoa, Gió Mới với bút hiệu Hoàng Thái Linh vừa cho phát hành cuốn Nhận Định về một số vấn đề văn chương, triết. Ba cuốn sách trước ông đã soạn theo khuôn khổ mực thước của sách giáo khoa về triết học, giáo dục, tôn giáo. Cuốn Nhận Định nầy là cuốn sách thứ tư của Nguyễn Văn Trung xuất bản tại VN. cố gắng vượt ra ngoài phạm vi gò bó của loại sách giáo khoa kể trên. Thật ra Nhận Định là tuyển tập những bài báo mà Nguyễn Văn Trung đã cho đăng trên các báo chí đô thành. Vì những bài báo đó bàn về đủ mọi vấn đề nên người đọc thoạt đầu hơi bỡ ngỡ không tìm thấy tính cách liên tục của cuốn sách. Nhưng đi sâu vào nội dung thì hẳn ta cũng tìm thấy sự nhất trí của tác giả. Dù đọc những bài báo về triết lý, giáo dục, hay tôn giáo, văn chương, ta vẫn thấy một con người Nguyễn Văn Trung duy nhất xuất hiện. Đó là một con người đùng trong hoàn cảnh phức tạp của xã hội nên muốn nhìn bốn phía, muốn nhận đýnh cho rõ những hoàn cảnh bao quanh mình. Nhưng dù nhìn về trước mặt hay nhìn lại sau lưng, nhìn những người tuổi trẻ hay những vấn đề siêu hình, bao giờ NVT cũng đứng trên quan điểm triết gia công giáo, chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc những tư tưởng hiện tượng luận hiện đại. Về giá trị của từng bài, từng chương trong cuốn sách, người đọc giữ lại một cảm tưởng tổng quát có những bài có giá trị trung bình, nhưng cũng có bài xuất sắc. Những bài bàn về giáo dục của Nguyễn Văn Trung sẽ là những bài văn chóng tàn vì chúng liên lạc trực tiếp với những sự kiện có tính cách thời sự. Chúng sẽ bị thời gian vượt qua chẳng bao lâu. Trong bài so sánh Phật giáo và Công giáo, tác giả đã tỏ ra khe khắt với thuyết nhà Phật. Đó là một quan điểm cần phải xác định lại. Trái lại, loại bài về Cái nhìn, Tự tử, E lệ của NVT xứng đáng cho ta khuyên bên cạnh một nét son rất đậm. Đó là những bài khảo luận của một người am hiểu triết lý thực sự và cố gắng góp một phần tư tưởng vào lâu đài triết học. Qua những bài đó, ta thấy NVT có một lập luận vững chắc, một lập trường cởi mở, nhân bản. Nhận xét một cách tổng quát, ta vẫn phải nói rằng cuốn Nhận Định của Nguyễn Văn Trung là một cuốn sách có giá trị. Giá trị của cuốn sách và cố gắng của tác giả càng đáng đề cao hơn nữa trong tình trạng văn hoá hiện tại, khi mà sách vở triết lý quá hiếm hoi đến nỗi có những người vốn làm hề mà dám viết nên những cuốn sách triết lý để lòe bịp người đời. Nguyễn Linh trích Gió Mới, 20/1/1958 Văn bản do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh đánh máy theo bản viết tay của tác giả và gửi cho Văn Việt. Bài cũng đã đăng ngày 04/09/2007, trang web Thông Luận. Comments are closed.
nhìn lại chặng đường dài mà mình đã qua