phát triển ngành du lịch cho phép
V. Giải pháp chuyển đổi số ngành du lịch 1. Thay đổi nhận thức trong ngành du lịch 2. Hoàn thiện khung pháp lý 3. Phát triển cơ sở hạ tầng hệ thống thông tin số 4. Sự phát triển của các nền tảng kỹ thuật số trong ngành du lịch 5. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quảng bá sản phẩm du lịch 6. Tối ưu chuyển đổi số trong vận hành của doanh nghiệp
Phát triển du lịch MICE nằm trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 Cơ hội với MICE Các số liệu thống kê của ngành du lịch cho thấy, đến nay, số doanh nghiệp (DN) đăng ký mới và quay trở lại trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục nằm trong số những điểm đến có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, từ 50-75%.
Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
Site De Rencontre Payant Et Serieux. LỜI MỞ ĐẦUNgày nay đời sống của con người ngày càng cao, họ không những có nhu cầu đầy đủ về vật chất mà còn có nhu cầu được thoả mãn về tinh thần như vui chơi, giải trí và du lịch. Do đó, du lịch là một trong những ngành có du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước khác trên thế giới nhưng vai trò của nó thì không thể phủ nhận. Du lịch là một ngành “công nghiệp không có ống khói”, mang lại thu nhập GDP lớn cho nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra toàn thế giới. Nhận thức được điều này, Đảng và nhà nước đã đưa ra mục tiêu xây dựng ngành du lịch thành ngành kinh tế nghiên cứu về du lịch trở nên cấp thiết, nó giúp chúng ta có một cái nhìn đầy đủ, chính xác về du lịch. Điều này có ý nghĩa cả về phương diện lí luận và thực tiễn. Nó giúp du lịch Việt Nam đạt được những thành tựu mới, khắc phục được những hạn chế, nhanh chóng đưa du lịch phát triển đúng với tiềm năng của đất nước, nhanh chóng hội nhập với du lịch khu vực và thảo luận của nhóm em đề cập đến những nhận thức cơ bản về "Thực trạng, thuận lợi, khó khăn và giải pháp phát triển du lịch ở Việt Nam". Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nên không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của cô IKHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA DU LỊCH VIỆT NAM Khái quát về sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam trước khi hội nhập Lịch sử hình thành ngành du lịch Ngành Du lịch tại Việt Nam chính thức có mặt khi Quốc trưởng Bảo Đại cho lập Sở Du lịch Quốc gia ngày 5/6/1951. Chuyển tiếp sang thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Nha Quốc gia Du lịch điều hành việc phát triển các tiện nghi du lịch trong nước ở phía nam vĩ tuyến 17 cùng tăng cường hợp tác quốc tế như việc gửi phái đoàn tham dự Hội nghị Du lịch Quốc tế ở Brussel năm 1958. Năm 1961 Nha Du lịch cổ động du lịch "Thăm viếng Đông Dương"với ba chí điểm Nha Trang, Đà Lạt và Vũng Tàu. Vì chiến cuộc và thiếu an ninh ngành du lịch bị hạn chế nhưng chính phủ vẫn cố nâng đỡ kỹ nghệ du lịch như việc phát hành bộ tem "Du lịch" ngày 12 Tháng Bảy năm 1974. Đối với miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì ngày thành lập ngành Du lịch Việt Nam được tính là ngày 09/7/1960. Ngày 9/4/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 119-HĐBT thành lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam. Ngày 26/10/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục Du lịch. Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ-BNV về việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam. Quá trình phát triển ngành du lịch trước khi gia nhập WTO Từ năm 1960 đến 1975 Du lịch Việt Nam hoạt động chủ yếu là đón tiếp các đoàn khách của Đảng và Nhà nước phục vụ cho quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam và xây dựng đất nước. Từ năm 1975 đến 1990 Ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ tiếp quản, bảo toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở, thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch .Trong giai đoạn này, du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu hai miền Nam - Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. Ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn từ 1990 đến nay Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước ngành Du lịch đã khởi sắc, vươn lên đôi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Năm 2001 đến 2007, tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như chiến tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhưng do năng động, cố gắng vượt khó, chủ động áp dụng các biện pháp tháo gỡ táo bạo, kịp thời, nên lượng khách và thu nhập hàng năm vẫn tăng trưởng 2 con số. • Dưới đây là số liệu thống kê về một số chỉ tiêu trong du lịch trong giai đoạn từ 1990 đến 2006* Năm 1990 cả nước chỉ có 350 cơ sở lưu trú du lịch với buồng, thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt tỷ đồng, chỉ đón hơn lượt khách quốc tế, cả khách quốc tế và nội địa là *Giai đoạn từ 1995 đến 2003 lượng khách quốc tế đến Việt Nam du lịch tăng từ lên lượt khách. * N ăm 2004 Trong tháng 12 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng lượt người. Cả năm 2004, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt lượt người, tăng 20,5% so năm 2003. * Năm 2005 Trong tháng 12/2005 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt lượt. Trong cả năm 2005 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt lượt, tăng 18,4% so với năm 2004. * Năm 2006 Trong tháng 12/2006 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt lượt. Tổng cộng trong 12 tháng lượng khách quốc tế ước đạt lượt, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2005. Lượng khách du lịch bao gồm của khách quốc tế và nội địa tăng không ngừng từ khách quốc tế năm 1990 lên hơn 3,58 triệu lượt khách vào năm 2006. Thu nhập từ du lịch năm 1990 đạt 13 ngàn tỷ đồng, đến năm 2006, thu nhập từ du lịch đạt 51 nghìn tỷ đồng.• Khẩu hiệu ngành du lịch2001-2004 Việt Nam - Điểm đến của thiên niên kỷ mới2004-2005 Hãy đến với Việt Nam2006 - nay Việt Nam - Vẻ đẹp tiềm Sự phát triển du lịch Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế khác và những thuận lợi khi Việt Nam gia nhập WTO thì ngành du lịch Việt nam đã khởi sắc và ngày càng có tác động tích cực đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Số doanh nghiệp du lịch tăng đặc biệt là hệ thống cơ sở lưu trú du lịch với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế đã phát huy được hiệu quả tích cực góp phần vào sự phát triển chung của ngành du lịch.• Sự phát triển đó được thể hiện dựa trên các số liệu về lượng du khách, doanh thu và các hoạt động về du lịch mà Việt Nam đã tổ chức được.*Năm 2007 Nước ta lần đầu tiên đạt 4,23 triệu lượt khách quốc tế. GDP du lịch chiếm khoảng 4% GDP cả nước theo cách tính của WTO thì con số này là 9%. Trong tháng 12/2007 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt lượt. Tổng cộng trong cả năm lượng khách quốc tế ước đạt lượt, tăng 16,0% so với năm 2006. Du lịc nước Ta trong năm này đã có 10 sự kiện tiêu biểu• Thành công của Năm du lịch quốc gia "Về thủ đô gió ngàn - Chiến khu Việt Bắc"• Ngành du lịch đón vị khách quốc tế thứ 4 triệu• Quảng bá du lịch Việt Nam trên kênh truyền hình quốc tế CNN• Tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Du lịch VN - Lào - Campuchia và Hội chợ Du lịch chủ đề "3 quốc gia, 1 điểm đến"• Chương trình vận động bầu chọn cho vịnh Hạ Long• Khảo sát xây dựng sản phẩm, các tour du lịch mới• Festival hoa Đà Lạt thành công• Bùng nổ các dự án đầu tư FDI vào du lịch• Mười năm hoạt động của trang web ngành• Khách du lịch đến miền Trung tăng trưởng cao.* Năm 2008Trong tháng 12/2008 lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt lượt. Tổng cộng trong cả năm 2008 lượng khách quốc tế ước đạt lượt, tăng 0,6% so với năm sự kiện tiêu biểu năm 2008 là • Năm du lịch miệt vườn Sự kiện chủ đạo, xuyên suốt về du lịch năm 2008 là Du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long. Đến với Cần Thơ, du khách thăm vùng châu thổ trù phú, sông rạch chằng chịt với hệ sinh thái đa dạng, những di tích văn hóa phong phú của cộng đồng dân tộc Hoa, Khmer, Chăm. • Du lịch về cội nguồn Đây là năm thứ tư, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai phối hợp tổ chức du lịch về cội nguồn, quảng bá các sự kiện văn hóa du lịch độc đáo của vùng. • Festival Huế 2008• Bầu chọn Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới. • Bắn pháo hoa quốc tế dọc hai bên bờ sông Hàn vào thời điểm TP Đà Nẵng tổ chức các lễ hội như Liên hoan Văn hóa Du lịch biển, lễ hội "Gặp gỡ Bà Nà"... • Thi hoa hậu du lịch 2008• Hoa hậu Hoàn vũ quốc tế tại thành phố Nha • Diễn đàn du lịch các nước ASEAN và TRAVEX 2009 Đây là sự kiện thường niên về du lịch có uy tín và quy mô lớn nhất trong khu vực. *Năm 2009 Trong tháng 12, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 376,400 lượt. Tính chung cả năm 2009, lượng khách quốc tế ước đạt lượt, giảm 10,9% so với năm hoạt động du lịch tiêu biểu năm 2009 là• Diễn đàn Du lịch ASEAN 2009 ATF-09. Chương trình kích cầu du lịch "Ấn tượng Việt Nam". • 10. Vịnh Hạ Long vào vòng chung kết Cuộc bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Vịnh Lăng Cô Thừa Thiên - Huế được công nhận và xếp hạng vịnh đẹp thế giới.• Năm Du lịch Tây Nguyên với chương trình Lễ hội Festival hoa Đà Lạt năm 2009.• Lễ hội cồng chiêng Gia Lai• Lễ hội cà phê Đắc Lắc lần thứ 2• Lễ hội Rượu trắng Đắk Nông; Cuộc thi pháo hoa Quốc tế tại Đà Nẵng• Lễ hội biển Nha Trang• Những ngày văn hóa du lịch Mê Công - Nhật Bản ở Cần Thơ• Đại hội Thể thao trong nhà châu Á lần thứ 3• Hội chợ thực phẩm và khách sạn TP Hồ Chí Minh• Chương trình "3 nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia - một điểm đến" tại TP Hồ Chí Minh.* Tính đến tháng 8/ 2010 Lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt lượt, tăng 37,7% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung 8 tháng năm 2010 ước đạt lượt, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm 2009.• Năm 2010 cũng diễn ra nhiều sự kiện quan trọng Sự kiện "Năm Hà Nội", Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội• Festival Huế• Cuộc thi Hoa hậu Thế giới tại Nha Trang• Liên hoan phim quốc tế• Liên hoan múa rối và xiếc quốc tế Thu nhập từ du lịch năm 1990 đạt 13 ngàn tỷ đồng, đến năm 2009, thu nhập từ du lịch tăng từ 6,5 đến 9% so với năm 2008, đạt từ đến tỉ đồng. Tổng cục Du lịch dự kiến, trong năm 2010, ngành du lịch cả nước sẽ đón khoảng từ 4,5 đến 4,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng từ 18 đến 21% so với năm 2009; Lượng khách nội địa trong năm 2010 sẽ đạt khoảng 28 triệu lượt khách. Hệ thống cơ sở lưu trú du lịch ngày càng phát triển và đa dạng các loại hình. Đến nay, cả nước có cơ sở lưu trú du lịch với tổng số buồng, tăng 25 lần so với năm 1990 với tốc độ tăng trưởng bình quân là 12,6%/năm trong khi đó trên phạm vi toàn thế giới tốc độ tăng cơ sở lưu trú du lịch bình quân 3% . Cùng với sự phát triển về số lượng, hệ thống cơ sở lưu trú du lịch Việt đã có những chuyển biến mạnh về chất lượng. Đến nay, cả nước đã có tổng số cơ sở lưu trú du lịch được xếp từ hạng đạt tiêu chuẩn kinh doanh LTDL đến hạng 5 sao, cụ thể 25 khách sạn 5 sao với buồng, 69 khách sạn 4 sao với buồng, 144 khách sạn 3 sao với buồng, 590 khách sạn 2 sao với buồng, 632 khách sạn 1 sao với buồng và khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu với buồng Toàn ngành du lịch hiện có lao động trực tiếp trong đó lao động làm việc trong trong hệ thống cơ sở lưu trú du lịch là IINHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI DU LỊCH VIỆT NAM HỘI NHẬP THẾ Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạngViệt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, vừa có biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái Bình Dương của một số nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành đai nhiệt đới bắc bán cầu, đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó, mang lại đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam có hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng. Việt Nam còn có những danh thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc Huế. Chúng ta còn thu hút du khách nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ quốc Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác Mơ, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Vì, Mai Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát Tiên, khu ngập nước Văn Long, Bà Nà, Đồng Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U Minh… Hiện nay, du lịch sinh thái đang được nhiều du khách quan tâm nên đây là điều kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác tiềm năng sẵn có. Mặt khác lãnh thổ nước ta kéo dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với biển cũng tạo cho chúng ta những bãi biển cát mịn và đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…Ngoài những thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng nghề, lễ hội truyên thống. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống của nước ta rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích và truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du khảo hết các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có hơn2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren, dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian. Đi dọc Việt Nam du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền thống dày đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế… Thực tế, hiện nay du khách muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến nước, sân đình, thăm các di tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm hiểu các vị tổ làng nghề hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt Nam chứa đựng tiềmnăng dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận nơi xem các công đoạn nghệ nhân làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia làm sản phẩm theo trí tưởng tượng của riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền thống làng nghề là điều mà du khách trong và ngoài nước quan Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có giá trị văn hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn hoá phong phú và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên một mảnh đất, lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội khác nhau tạo nên sự đa dạng cho sản phẩm du lịch Việt những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc biệt con người Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho tất cả những tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt Nam phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta tận dụng những tiềm năng đó như thế nào nó phụ thuộc vào cách làm của chúng Chính sách khuyến khích phát triển du lịch của Nhà nước Những năm gần đây du lịch đã được nhà nước chú trọng phát triển bởi tiềm năng lợi ích mà du lich mang lại là rất Giao thông thuận tiện giúp du khách thuận tiện đi lại và giảm chi phí đi lại, nhiều công trình như đường hầm, cáp treo .. được xây Các di tích, di sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển được tôn tạo, bảo tồn và phát Nhiều khu vui chơi, giải trí được xây dựng tại các địa điểm du lich hấp Có chính sách phát triển du lịch cho từng địa Tổ chức các sự kiện , các chương trình lớn kích cầu về du lịch. - Mở trường , mở khoa đào tạo về khách sạn du Tạo dựng hình ảnh , quảng bá văn hóa , thắng cảnh của Việt Nam ra thế giới nhằm thu hút khách quốc Thị trường du lịch ngày càng được mở rộng Đời sống của nhân dân hiện nay ngày càng được nâng cao vì thế nhu cầu về du lịch ngày càng nhiều, hơn thế nhận thức của người dân cũng cao hơn, mong muốn có sức khỏe tốt, muốn khám phá thế giới, vui chơi giải trí. Cuộc sống thành thị ồn ào, ngột ngạt, căng thẳng cũng khiến con người ta có nhu cầu tìm đến những nơi trong lành, thoải mái, yên tĩnh... Việc quảng bá hình ảnh Việt Nam cũng tạo thuận lợi cho việc chúng ta khai thác thị trường ngoài nước góp phần tăng nguồn ngoại tệ và phát triển thương hiệu du lich Việt Nam. Các loại hình du lịch ngày càng đa dạng hóa và phát triển trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được thiên nhiên ban tặng nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng với những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng. Bên cạnh đó, lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông đã để lại cho chúng ta những di tích lịch sử- văn hóa quý giá. Bởi vậy loại hình du lịch đã và đang phát triển đầu tiên phải kể đến là* Tham quan di tích - thắng cảnh như Vịnh Hạ Long, động Phong Nha, đền Ngọc Sơn, và hồ Hoàn Kiếm, chùa Trấn Quốc và Hồ Tây…* Du lịch lễ hội Festival Huế, hội chùa Hương, hội Lim…Du lịch phố cổ Hội An, Hà Nội, phố Hiến - Hưng Yên…* Du lịch sinh thái Nhà vườn Huế, bãi biển Lăng Cô, rừng Cúc Phương, hồ Ba Bể…* Du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh tắm nước khoáng Kim Bôi - Hòa Bình, nhà nghỉ ở Phan Thiết, Nha Trang, châm cứu ở Hà Nội…* Du lịch MICE, tức là loại hình du lịch theo dạng gặp gỡ xúc tiến, hội nghị, hội thảo, du lịch chuyên đề ở Vũng Tàu, Đà Nắng…* Du lịch dựa vào cộng đồng vì người nghèo nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo như ở Hà Nội, Lào Cai, Sa Pa…* Du lịch hoa ở Đà Lạt, Hà Nội, TPHCM…* Tham quan các trại điêu khắc ở Huế, Đà Nẵng, Phú Thọ…* Du lịch bụi bằng xe đạp, xe máy, ô tô buýt, xích lô ở Hà Nội, xe trâu ở làng gốm Bát Tràng, cưỡi ngựa ở Lâm Đồng, cưỡi voi ở Tây Nguyên, du thuyền trên sông Hồng, sông Cửu Long…* Du lịch cuối tuần ở TPHCM, Hà Tây, Vũng Tàu…* Du lịch tuần trăng mật ở Đà Lạt, Sa Pa, Tam Đảo…* Du lịch tham quan các bảo tàng ở các thành phố lớn. * Du lịch làng nghề gốm Bát Tràng, tơ lụa Vạn Phúc - Hà Đông…* Du lịch mua sắm bắt đầu phát triển ở TPHCM, Hà Nội, Huế…* Du lịch ẩm thực tiệc cung đình Huế hay ẩm thực Hà Nội. * Du lịch mạo hiểm lặn biển ở Nha Trang, leo núi Tây Bắc, xuyên rừng Cúc Phương…* Du lịch thể thao dù lượn ở Nha Trang, Tuần Châu, sân gôn Đồng Mô…Với sự đa dạng về loại hình du lịch ngành du lịch Việt Nam đã phát triển vượt bậc cũng có nghĩa đã đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu du lịch của khách trong nước cũng như khách quốc KHÓ KHĂN Khó khăn trong quy hoạch Được coi là điểm sáng của năm 2005 tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức cao trên 20%, thu hút hơn 3,4 triệu khách quốc tế và 16 triệu khách nội địa. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực, số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn còn nhỏ bé.“Hiện chúng ta đang thiếu các điểm du lịch quy mô, “ra tấm ra miếng”. Thực trạng đầu tư manh mún, nhỏ lẻ, chạy theo số lượng mà không chú ý đến tính chuyên nghiệp” - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Phạm Từ thừa nhận, “một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do qui hoạch du lịch tổng thể, chi tiết từng vùng chưa được thực hiện tốt”.Vấn đề đặt ra là nêu chúng ta không có biện pháp quy hoạch ngay thì liệu một thời gian nữa còn có chỗ mà quy hoạch không và du lịch có thật sự được phát triển . Khủng hoảng kinh tế, kinh tế suy thoái, dịch bệnh, thiên 2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu điều đó ảnh hưởng rấ lớn tới các nước lớn, chi tiêu của người dân hạn hẹp vì thế mà lượng khách nước ngoài đến Việt Nam giảm sút, khách du lịch trong nước cũng theo đà giảm theo. Điều đó khẳng định tình hình kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của du lịch Hơn thế nữa, cùng với sự nóng lên của trái đất làm cho dịch bệnh và thiên tai hoành hành ở nhiều nơi không những làm hư hại tài nguyên du lịch mà còn hạn chế lượng khách du lịch tơi các nơi thiên tai, dịch bệnh do e ngại về sự an toàn và sức khỏe của họ. Ý thức người dân và việc bảo vệ môi trường Hiện nay có một tình trạng là khách du lịch đi đến các điểm du lịch xả rác bừa bãi gây mất cảnh quan và ô nhiễm môi trường, trước tình hình đó ngành du lịch phải có biện pháp cụ thể để ngăn chặn nếu không sẽ để lại hình ảnh xấu trong mắt khách du lịch quốc tế và ảnh hưởng tới môi trường sống .- Vấn đề nữa là người dân chưa có ý thức bảo vệ tại nguyên du lịch, chưa nhận biết tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên du lịch, khiến việc tu sửa, bảo tồn, phát triển gặp khó khăn. Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên thai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trong Nhiều tài nguyên có tiềm năng khai thác nhưng do bị mai một, lãng quên, và bị hủy hoại nên vẫn bỏ Nhân lực cho ngành du lịch chưa đạt yêu cầuViệc gia tăng lượng khách du lich hàng năm là một dấu hiệu đáng mừng, nhưng cũng không đủ cầu và cung như thế nào để thỏa mãn nhu cầu của cầu là một vấn đề đặt ra cho ngành du lịch, bởi đội ngũ nhân lực cho ngành du lịch còn đang thiếu và yếu về chuyên môn, yếu về ngoại ngữ. Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đào tạo được đội ngũ nhân viên du lịch lái xe, tiếp viên, hướng dẫn viên… có nghiệp vụ, có văn hoá, biết ngoại ngữ đủ để đáp ứng yêu cầu của thị trường đang ngày càng tăng. Hoạt động du lịch ngày càng đa dạng hoá về sản phẩm du lịch, loại hình du lịch và chất lượng các sản phẩm du lịch. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Những người làm công tác quản lý trong ngành du lịch có trình độ không đồng đều, một số chưa qua đào tạo về quản lý doanh nghiệp du lịch. Tuy tiềm năng du lịch rất lớn nhưng hệ thống cơ sở đào tạo du lịch còn quá ít. Trong khi nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ còn thiếu thì sự sắp xếp bộ máy cán bộ không hợp lý, rườm rà gây ra lãng phí rất nhiều nhân lực. Do đó, kiện toàn sắp xếp lại đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cần phải giải quyết ngay. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo mới ở các trường và đào tạo lại, bồi dưỡng ở các cơ quan, doanh nghiệp, mặc dù đã được đầu tư xây dựng, trang bị mới và nâng cấp nhưng vẫn thiếu, không đồng bộ, nhất là ở các cơ sở đào tạo mới tham gia vào đào tạo du lịch. Đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên du lịch hạn chế về số lượng, chất lượng. Đặc biệt, thiếu giáo viên tay nghề cao. Số giảng viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ không nhiều. Phương pháp đào tạo nặng về lý thuyết, độc thoại. Lực lượng giáo viên cơ hữu mỏng và rất khác nhau giữa các trường. Các trường ngoài công lập và trường mới thành lập có mở ngành du lịch tỷ lệ giáo viên cơ hữu rất thấp, thường dưới 50% . Công tác marketing chưa được triển khai toàn diện Hoạt động Marketing cho ngành du lịch bao gồm rất nhiều hoạt động từ xúc tiến quảng cáo ở nước ngoài cho tới thu thập thông tin về các thị trường và khách hàng tiềm năng và hiện tại, thúc đẩy từng loại hình và dịch vụ du lịch. Chúng ta chưa đầu tư đầy đủ vào hoạt động marketing giới thiệu về Việt Nam như một điểm đến của du lịch ở nước ngoài và vẫn chưa có được một chiến lược để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của Việt Nam. Mặc dù có các chương trình khuyếch chương ở trong nước nhưng các chương trình này không giúp thu hút được được khách du lịch mới đến Việt nam vì chúng hướng vào những khách du lịch đang ở Việt Nam rồi. Hơn nữa, hoạt động xúc tiến quảng cáo ở Việt Nam
Contents1 Chú ý đến sự an toàn của khách du lịch tại Việt Nam2 Chuyên nghiệp hóa dịch vụ3 Tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo4 Cải thiện giao thông ở các thành phố lớn5 Đa dạng hóa các hình thức du lịch6 Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới7 Thay đổi nhận thức về du lịch từ cấp quản lý nhà nước8 Bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa9 Xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam10 Phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp Việt Nam hiện có nhiều điều kiện để phát triển ngành du lịch hơn so với các nước trong cùng khu vực. Nhưng thực tế cho thấy ngành du lịch nước ta vẫn chưa thu hút được nhiều du khách, đặc biệt là du khách quốc tế. Vì vậy, xin đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam. Chú ý đến sự an toàn của khách du lịch tại Việt Nam Tệ nạn xã hội đã và đang là một vấn đề cần được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp chính quyền địa phương cũng như toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, vấn đề này càng được nhiều người quan tâm trong việc phát triển ngành du lịch nước nhà. Nạn móc túi, cướp giật, ăn xin, lừa đảo, … đã trở thành ấn tượng xấu trong lòng du khách khi đến Việt Nam. Họ cảm thấy lo sợ và bất an khi tham quan các danh lam thắng cảnh, thưởng thức ẩm thực tại các nhà hàng và thậm chí là ở nhà nghỉ, khách sạn. Vì vậy, để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, chúng ta cần chú trọng đến sự an toàn của du khách bằng các biện pháp giải quyết triệt để các tệ nạn xã hội. Chuyên nghiệp hóa dịch vụ Hiện nay, số lượng dịch vụ tại bất kỳ điểm du lịch nào cũng tăng lên chóng mặt. Tuy nhiên, do chưa được đào tạo chuyên nghiệp nên chất lượng dịch vụ còn rất thấp và chưa có tính cạnh tranh. Ngành du lịch thực sự thiếu đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn, nghiệp vụ về giao tiếp, quản lý cũng như chất lượng dịch vụ. Vì vậy, cần tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ để giúp Việt Nam đủ sức cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch. Tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo Hầu hết các doanh nghiệp du lịch ở Việt Nam đều có quy mô vừa và nhỏ, vốn ít và chỉ tập trung khai thác các nguồn lực sẵn có hoặc “sao chép” các sản phẩm du lịch. Đây là một trong những điểm yếu khiến ngành du lịch Việt Nam chậm phát triển. Vì vậy, cần chú trọng tạo ra những sản phẩm đặc trưng, nổi bật của từng vùng miền để tạo nên nét riêng tại mỗi điểm du lịch, đồng thời quảng bá hình ảnh Việt Nam đến với du khách. Cải thiện giao thông ở các thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai cửa ngõ chính đón khách quốc tế bằng đường hàng không đến Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề giao thông đang là vấn đề đáng lo ngại nhất của hai thành phố này bởi cơ sở hạ tầng và đặc biệt là ý thức của người tham gia giao thông còn rất thấp. Hình ảnh tắc đường, lấn làn, vỉa hè hàng ngày đã trở thành nỗi lo của du khách khi đặt chân đến Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần cải thiện giao thông ở các thành phố lớn, điển hình là Hà Nội và để góp phần tạo ấn tượng tốt trong lòng du khách. Những bài có thể bạn thích Đa dạng hóa các hình thức du lịch Bắt kịp xu hướng du lịch của thế giới với nhiều thay đổi, hướng tới những giá trị mới độc đáo và nguyên sơ là một thách thức không nhỏ đối với ngành du lịch Việt Nam. Bởi để phát triển dịch vụ mà vẫn bảo tồn được các điểm du lịch tự nhiên, hướng về cội nguồn và thiên nhiên đối với Việt Nam là rất khó. Tuy nhiên, nếu không muốn đứng trước nguy cơ tụt hậu, mất thị phần trong ngành du lịch, cần đa dạng hóa các loại hình du lịch theo xu hướng của thế giới, đồng thời đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiện đại trong dịch vụ. . Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện để phát triển ngành du lịch so với các nước trong khu vực, nhưng chính chất lượng của khâu quảng bá hình ảnh lại khiến du khách quốc tế ít biết đến Việt Nam. Với việc sở hữu những di sản văn hóa và điểm đến hấp dẫn như Hạ Long, Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang,… Việt Nam cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng quảng bá hình ảnh của mình để tạo được tiếng vang và sức hút trong lòng du khách. của khách du lịch. Thay đổi nhận thức về du lịch từ cấp quản lý nhà nước Công tác quản lý ngành du lịch còn nhiều bất cập, kém hiệu quả, điển hình là công tác quản lý an ninh, an toàn, đảm bảo phát triển bền vững còn nhiều yếu kém, chưa bảo tồn và phát huy được giá trị của du lịch. di sản cũng như bảo vệ môi trường. Ngành du lịch Việt Nam cần tổ chức các lớp tập huấn kiến thức giao tiếp, ứng xử, quản lý cho cán bộ, hướng dẫn viên và người dân nhằm phát triển ngành du lịch nước nhà. Bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa Hiện nay, các không gian danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa đang bị xâm hại, điển hình là việc khai thác tài nguyên thiên nhiên vì mục đích kinh tế làm mất cảnh quan, ô nhiễm môi trường, mất thiêng. của các di tích. Ngành du lịch Việt Nam cần có những biện pháp bảo tồn di tích văn hóa để vừa lưu giữ di tích cho hậu thế, vừa giới thiệu những nét văn hóa đến du khách quốc tế. Xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam Du lịch Việt Nam cần tăng cường xây dựng hình ảnh du lịch đối với bạn bè quốc tế bằng việc tăng cường thực hiện nếp sống văn minh, tổ chức thông tin hướng dẫn, hỗ trợ du khách tại các điểm du lịch, đặc biệt là xây dựng phong trào ứng xử văn minh với thái độ cởi mở, chân thành và nhiệt tình. hướng tới khách du lịch. Làm được điều này, du lịch Việt Nam sẽ có hình ảnh đẹp trong mắt du khách. Phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp Các điểm du lịch ở Việt Nam cần tạo ra các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp cũng như khu vực cấm khói thuốc, không bán hàng, trèo kéo khách, bổ sung thực đơn với các món rau, củ, món ăn tăng cường. ăn ít chất béo, tổ chức câu lạc bộ sức khỏe cho du khách. Các dịch vụ này cần được bổ sung, nâng cao nhưng cũng phải đảm bảo chất lượng dịch vụ.
Việc đóng cửa biên giới quốc tế và tạm dừng các chuyến bay thẳng giữa Việt Nam và Australia đã ảnh hưởng tiêu cực đến các công ty khai thác du lịch của cả hai nước. Du lịch nội địa chỉ bù đắp được phần nào sự giảm sút du lịch ở cả hai nước. Thương mại Việt Nam là một thị trường du lịch đang phát triển tại Australia với ngành du lịch giải trí trị giá 231 triệu đô la Úc vào năm 2018 ở mức cao điểm. Con số này hạ xuống mức 200 triệu đô la Úc vào năm 2019, và còn giảm sâu hơn nữa bởi tác động của đại dịch vào năm 202048. Hơn công dân Việt Nam đã đến Australia trong năm 201949. Australia là một thị trường quan trọng đối với du lịch Việt Nam, bởi vì khách du lịch Australia có thời gian lưu trú tương đối dài hơn và chi tiêu cao hơn. Năm 2019, du lịch giải trí của Australia tới Việt Nam có giá trị là 1,2 tỷ đô la Úc50. Điều này cho thấy sức hút của Việt Nam trong mắt du khách Australia, đã có hơn 317,000 du khách Australia đến Việt Nam trong năm 201951. Việt Nam có hình ảnh đẹp trong mắt du khách Australia. Thu hút bởi văn hóa, ẩm thực và cảnh quan thiên nhiên, số lượng khách du lịch Australia ngày càng tang trước đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy kế hoạch mở các đường bay thẳng, với việc hãng hàng không VietJet và Bamboo Airways công bố kế hoạch bổ sung các đường bay thẳng từ Thành phố Hồ Chí Minh tới các thành phố lớn của Australia. Đầu tư Nằm trong khu vực phát triển du lịch mạnh mẽ nhất thế giới và là thị trường hàng không quốc tế lớn nhất, Australia mang đến một môi trường an toàn và ổn định cho các nhà đầu tư du lịch. Các nhà đầu tư Việt Nam vẫn quan tâm đến cơ sở hạ tầng du lịch và ngành du lịch của Australia. Những cơ hội trong tương lai Chính phủ Việt Nam và Australia mong muốn mở lại biên giới quốc tế và nối lại du lịch quốc tế khi điều kiện an toàn cho phép. Mối liên kết mạnh mẽ giữa người dân hai nước có tiềm năng rất lớn. Ngành du lịch Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng trong các lĩnh vực cụ thể, các lĩnh vực như du lịch sinh thái có thể tận dụng chuyên môn của Australia để có thể phát triển theo cách gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước đồng thời tăng cường phát triển kinh tế xã hội. Có cơ hội để tăng cường đào tạo kỹ năng dịch vụ du lịch và lữ hành nhằm đảm bảo lượng khách quay trở lại. Các nhà cung cấp giáo dục nghề của Australia có vị thế tốt để hỗ trợ đào tạo và cung cấp chứng chỉ chuyên môn cho ngành du lịch và lữ hành của Việt Nam. Ngành du lịch Ghi nhận rằng ngành du lịch quốc tế là một trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi COVID-19. Australia và Việt Nam nhận thấy ngành du lịch của hai nước sẽ phải đối mặt với những thách thức chuyển đổi và cơ cấu hậu COVID-19 như một hệ quả của sự thay đổi lâu dài trên toàn cầu đối với ngành du lịch và lữ hành. Xem kế hoạch thực hiện
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam Hà Văn Siêu - Ảnh VGP/Diệp AnhDu lịch đã chứng minh được những nỗ lực vượt bậc để phục phồi nhanh chóngTrong thời gian qua, du lịch Việt Nam đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả quan trọng. Trong đó đáng chú ý là mức tăng trưởng khách ấn tượng. Trong giai đoạn từ 2001 đến 2016, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 4,3 lần và khách du lịch nội địa tăng 5,3 lần. Từ năm 2016 đến trước năm 2019, du lịch tiếp tục tăng trưởng mạnh. Cụ thể, năm 2019 khách quốc tế đến Việt Nam đạt con số kỷ lục với 18 triệu lượt, tăng 16,2% so với năm 2018 và tăng 1,8 lần so với năm 2016. Khách du lịch nội địa đạt 85 triệu lượt, tăng 23 triệu lượt so với năm 2016. Tổng thu từ khách du lịch đạt 755 nghìn tỷ đồng tương đương 32,8 tỷ USD. Đóng góp trực tiếp của ngành du lịch tương đương 9,2% GDP cả nước. Giai đoạn này tốc độ tăng trưởng khách du lịch của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất trên thế giới theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới. Trước khi dịch COVID-19 gây ảnh hưởng nặng nề tới mọi mặt của đời sống xã hội trong đó ngành du lịch chịu ảnh hưởng và tác động nhiều nhất thì tháng 01/2020 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt con số kỷ lục là 2 triệu lượt trong một tháng. Du lịch đã chứng minh được những nỗ lực vượt bậc để phục phồi nhanh chóng sau đại dịch COVID-19 kể từ khi mở lại hoàn toàn du lịch từ ngày 15/3/2022. Chỉ 6 tháng đầu năm 2022, ngành du lịch đã phục vụ được 60,8 triệu lượt khách nội địa tăng 1,9 lần so với cùng kỳ năm 2021 và tăng 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2019, vượt mục tiêu 60 triệu lượt của cả năm 2022. Lượng khách quốc tế tăng lên với tốc độ nhanh chóng qua từng tháng. Đặc biệt trong suốt thời gian qua, du lịch Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và liên tiếp nhận các giải thưởng quốc tế. Mới đây nhất theo Báo cáo chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu năm 2021 của Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF phát hành ngày 24/5/2022 vừa qua, du lịch Việt Nam xếp hạng thứ 52 trên 117 nền kinh tế, tăng 8 bậc so với năm 2019. Đây là mức tăng cao thứ 3 thế giới. Báo cáo chỉ số năng lực phát triển du lịch toàn cầu năm 2021 đánh giá, xếp hạng 117 nền kinh tế trên cơ sở đo lường 17 chỉ số trụ cột. Trong 17 chỉ số trụ cột, du lịch Việt Nam có 6 chỉ số được xếp vào nhóm dẫn đầu thế giới hạng 1-35, gồm có 1 Sức cạnh tranh về giá, xếp hạng 15 thế giới; 2 Tài nguyên tự nhiên, xếp hạng 24; 3 Tài nguyên văn hóa, xếp hạng 25; 4 Hạ tầng hàng không, xếp hạng 27; 5 Tài nguyên phi giải trí, xếp hạng 29; 6 An toàn, an ninh, xếp hạng 33. Đây là bước tiến bộ đột phá so với năm 2019 khi Việt Nam chỉ có 3 chỉ số được xếp vào nhóm này là sức cạnh tranh về giá, tài nguyên tự nhiên và tài nguyên văn hóa. Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam Hà Văn Siêu cho rằng, những chỉ số trên và sự ghi nhận của quốc tế là dấu hiệu tích cực, thể hiện những nỗ lực cố gắng của toàn ngành du lịch Việt Nam. Trong đó có sự chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, sự vào cuộc của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, cộng đồng dân cư, các địa phương với khát vọng phát triển du lịch để góp phần khẳng định vị trí Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới. Đây cũng là thành quả của một quá trình nỗ lực không ngừng của Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chủ động, kịp thời tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép mở lại hoàn toàn du lịch khi có đủ điều kiện cho phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Sự phát triển đó cũng đã được đánh giá và ghi nhận tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đây là Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp phát triển du lịch Việt Nam. Nghị quyết thể hiện quyết tâm chính trị ở cấp cao nhất của Đảng ta nhằm phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, thông qua nhìn nhận khả năng đóng góp của du lịch vào kinh tế - xã hội. Sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong du lịch còn thấp Tuy nhiên, theo Phó Tổng cục trưởng Hà Văn Siêu, ngành du lịch còn tồn tại một số hạn chế, du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Các nguyên nhân chủ yếu của những vấn đề vướng mắc mà ngành du lịch đang gặp phải, dẫn đến du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng đó là Các cấp, các ngành chưa thực sự coi du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa và hội nhập quốc tế cao; thiếu chính sách quốc gia phù hợp để du lịch phát triển theo đúng tính chất của một ngành kinh tế vận hành theo quy luật thị trường; thể chế, chính sách phát triển du lịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; sự phối hợp liên ngành, liên vùng hiệu quả còn thấp, chưa huy động được nhiều nguồn lực của xã hội cho phát triển du lịch…Nhấn mạnh đến sự phối hợp liên ngành, liên vùng, ông Hà Văn Siêu cho biết, các thể chế, chính sách về phát triển du lịch cần chú trọng tới sự liên thông, liên kết giữa các ngành, các vùng để cùng phát triển du lịch. "Ngành công an, ngoại giao về xuất nhập cảnh, các chính sách thị thực; ngành giao thông kết nối đường bộ, đường hàng không, đường sông, đường biển; đầu tư vào hạ tầng giao thông. Ngay trong ngành văn hóa và ngành du lịch cũng cần phải có sự liên kết chặt chẽ. Công nghiệp văn hóa phải phát triển tương xứng như thế nào để thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa", ông Hà Văn Siêu nhấn sách visa cần linh hoạt và khôn khéo hơn để đã miễn thị ta phải giữ khách lưu lại lâu hơn, đã miễn thì miễn đàng hoàng hơn; còn không chỉ cần thuận tiện, nhanh chóng mà làm hài lòng khách tế, nhiều nước miễn thị thực 30 ngày, tuy nhiên ở Việt Nam phần lớn các quốc gia mới đang được hưởng chế độ miễn thị thực 15 ngày, trong khi đó du khách đến từ những thị trường xa thường có nhu cầu đi du lịch lâu hơn. Điều đó dẫn đến không thu hút được khách có khả năng lưu trú dài ngày với mức chi tiêu cao."Mặc khác, điều kiện cơ sở hạ tầng, từ sân bay, nhà ga, cảng biển, hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên vùng… cũng cần được nâng cấp với tầm nhìn dài hạn tránh tình trạng mới nâng cấp được vài năm lại quá tải. Do đó, những chính sách liên quan đến du lịch cần phải được không ngừng đổi mới, hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu đặt ra của thị trường", ông Hà Văn Siêu kết chặt chẽ để hình thành chuỗi giá trị cung ứng hiệu quảCũng theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu, để huy động các nguồn lực, sự liên kết giữa các địa phương theo tính chất liên vùng, đòi hỏi sự vào cuộc của tất cả địa phương. Cần phải đầu tư các sản phẩm du lịch liên vùng, chuỗi giá trị các địa phương theo điểm đến để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là chuỗi giá trị du lịch Việt Nam phải nằm trên hành trình khách đến Đông Nam Á và kết nối trên phạm vi toàn cầu. Như vậy du lịch Việt Nam mới gắn kết và đặt vào chuỗi kết nối du lịch trong phạm vi toàn cầu. Tính kết nối của du lịch càng dễ nhận thấy khi đại dịch COVID-19 bất ngờ ập đến. Du lịch "trọng thương" kéo theo một loạt các ngành khác cũng lao đao. Du lịch gặp khó khăn khiến các ngành dịch vụ, ngân hàng, tài chính, nông nghiệp, công nghiệp, các doanh nghiệp... đều bị ảnh hưởng. Ngược lại, nếu du lịch phát triển thì cũng thúc đẩy các ngành khác bởi tất cả đã thành chuỗi giá trị cung ứng, ngành này phát triển hỗ trợ ngành khác phát triển đi theo. Chúng ta bàn nhiều giải pháp nhưng giải pháp quan trọng nhất là liên kết giữa các bên. Liên kết hợp tác là chìa khóa mở ra cho việc phát triển du lịch của Việt Tổng cục trưởng Hà Văn Siêu cho rằng, chúng ta đã làm được nhiều việc nhưng cũng có nhiều nhiệm vụ "té nước theo mưa" khi nhu cầu đến chúng ta mới làm. Điều đó dẫn đến hiệu quả du lịch đạt được chưa cao. Đơn cử, số lượng khách du lịch năm 2019, chúng ta đón 18 triệu khách quốc tế, 85 triệu khách nội địa, tổng thu từ khách du lịch là 755 ngàn tỷ đồng, như vậy tổng thu vẫn thấp so với lượng khách. Qua đó cho thấy hiệu quả du lịch chưa đúng với mong đợi, so với các nước chỉ số này là qua, đã có hàng loạt những cái "bắt tay chiến lược" giữa các địa phương, các tập đoàn lớn để phát triển du lịch Việt Nam. Nhiều vấn đề về liên kết vùng đã được đưa ra bàn thảo nhưng chưa tạo ra sản phẩm liên kết theo đúng yêu cầu du lịch, các sản phẩm liên kết còn hời hợt, hình thức, chương trình du lịch xuyên tỉnh, liên vùng đạt hiệu quả chưa cao. Ông Hà Văn Siêu cho rằng, du lịch muốn phát triển nhưng còn nhiều khó khăn hiện hữu cả về nguồn lực, trình độ, cơ chế, sự không đồng nhất giữa các bộ ngành; không có thiết chế điều tiết. Điều đó đòi hỏi phải có sự đổi mới cả về cơ chế, thể chế, đầu tư, bộ máy, con người, những vấn đề chung cần phải phối hợp liên kết với nhau. Câu chuyện liên kết luôn là bài toán muôn thuở cần phải giải. Chỉ có liên kết mới tạo ra sức mạnh mới, sức mạnh này thể hiện tính đa dạng, liên thông, nhờ có công nghệ hỗ trợ cho việc liên kết hiệu quả hơn, nhanh hơn. "Thực chất những chính sách đầu tư cho du lịch, đầu tư những lĩnh vực khác liên quan đến du lịch đã được quy hoạch để hướng đến phục vụ du lịch hay chưa hay vẫn tự phát, mạnh ai người đấy làm? Các ngành, địa phương đã có tư duy hướng về sự phát triển du lịch vì lợi ích quốc gia dân tộc, đưa quốc gia dân tộc thành cường quốc du lịch hay chưa? Tính liên kết vùng đã được giải quyết như thế nào? Điều đó đòi hỏi vừa phải có chính sách vừa phải có bộ máy đủ mạnh để thực thi, mới huy động được các ngành, các địa phương cùng vào cuộc", ông Hà Văn Siêu nhấn chứng cho sự liên kết nếu bền chặt sẽ đạt hiệu quả cao và tạo ra chuỗi giá trị cung ứng liên ngành. Đó là du lịch kết hợp với nông nghiệp. Những chương trình du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng vừa qua được tổ chức rất thành công. "Một mũi tên trúng nhiều đích" khi sự kết hợp này góp phần nâng cao giá trị về nông sản, thương hiệu hình ảnh nông sản Việt Nam, đời sống người dân điểm đến được cải thiện…Vấn đề nữa cần bổ sung ở góc độ cạnh tranh thế giới. Du lịch là ngành hội nhập, phải thích ứng với thế giới, do đó tiếng nói của ngành du lịch phải đủ mạnh, những ngành liên quan đến du lịch cũng phải chuyển biến theo thì du lịch Việt Nam với thế giới mới thu hẹp lại. Du lịch ngành tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực tuy nhiên hiện nay lại phụ thuộc khá nhiều vào ngành khác. Bài toán cạnh tranh chính ở chỗ đó. Khi mình làm chủ được sân đa phương trong hợp tác quốc tế, khi những vấn đề chúng ta đưa ra được các quốc tế chấp nhận thì mới chiếm lĩnh được trận địa trên cộng động quốc tế. Cơ cấu tổ chức của ngành du lịch có những sự biến động trong thời gian qua cũng là hạn chế làm cho sự quản lý của ngành không được liên tục liền mạch. Bản thân ngành du lịch liên quan đến nhiều ngành, nên mối quan hệ giữa ngành du lịch với các ngành không được liền mạch, tạo ra những "chơi vơi" khi thực thi những quyết định quản lý cần sự phối hợp của các ngành khác. Mỗi lần tách nhập thất thoát nhân lực cao, chất lượng nhân lực làm về tham mưu, chính sách quản lý không được ổn định, chuyên sâu, không được duy trì theo dòng lịch sử bền chặt và chất lượng. Nếu đặt ngành du lịch đúng vị trí là một ngành kinh tế mũi nhọn của một quốc có nhiều tiềm năng du lịch như Việt Nam thì cần có bộ máy quản lý du lịch đủ tầm; hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương đồng bộ, thống nhất để điều tiết quan hệ vùng; tổ chức bộ máy ổn định để thiết lập các quan hệ liên ngành, liên vùng một cách vững chắc; cán bộ quản lý du lịch đủ khỏe thì ngành du lịch mới có cơ hội vượt lên, dẫn dắt lan tỏa các ngành khác góp phần phát triển kinh tế - xã hội đi Anh
Tiến trình phục hồi của du lịch Việt Nam đang lạc nhịp so với thế giới. Trong khi thế giới đã tăng 31% so với năm 2020 thì du lịch Việt đang tiếp tục rơi.’ Vì thế, vấn đề đặt ra là phải phục hồi ngay nền kinh tế xanh Việt Nam và tốc độ nhanh hơn so với các nước để không tụt hậu. Đó là khẳng định của chuyên gia cao cấp Võ Trí Thành, Nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương tại tọa đàm bàn tròn trong khuôn khổ Hội thảo Du lịch 2021 với chủ đề “Du lịch Việt Nam-Phục hồi và phát triển,” vừa diễn ra hôm nay ngày 25/12, tại thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Vậy giải pháp nào để du lịch Việt Nam không lạc nhịp’ với thế giới? Du lịch Việt đang “rơi thẳng đứng” Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, ông Đoàn Văn Việt Khái quát bức tranh toàn cảnh ngành du lịch Việt thời gian qua Trong suốt 4 đợt bùng phát của dịch COVID-19, các hoạt động du lịch quốc tế đóng cửa hoàn toàn, khách nước ngoài chủ yếu là các chuyên gia, khách công vụ. Du lịch nội địa hoạt động phụ thuộc vào chu kỳ bùng phát dịch và hết sức cầm chừng. Năm 2021, đợt dịch thứ 4 bùng phát mạnh mẽ trên cả nước khiến các hoạt động kinh tế, xã hội đình trệ nhiều tháng. Mới đây, du lịch quốc tế bắt đầu mở cửa, khách du lịch nội địa tiếp tục giảm gần 30% so với cùng kỳ 2020. [Du lịch Việt sẽ phục hồi, phát triển trong bối cảnh mới ra sao?] Đáng nói, các quy định giãn cách phòng chống dịch, đóng cửa các điểm tham quan và dừng hầu hết các loại hình cung ứng khiến chuỗi dịch vụ đứt gãy nghiêm trọng. Năm 2020, có 338/ doanh nghiệp lữ hành quốc tế xin thu hồi giấy phép, 90% doanh nghiệp đóng cửa. Toàn cảnh hội thảo vừa diễn ra hôm nay tại Nghệ An. Ảnh TCDL Năm 2021, lượng doanh nghiệp lữ hành xin thu hồi giấy phép kinh doanh lữ hành chiếm trên 35% tổng số đã được cấp phép, phần còn lại dừng hoạt động. Lĩnh vực lưu trú chiếm 46% trong cơ cấu tổng thu của ngành du lịch Việt Nam cũng buộc phải đóng cửa khoảng 90% và hầu như không có khách, trừ các cơ sở đón khách cách ly. Hầu hết cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, các điểm tham quan, di tích, khu vui chơi giải trí... bị thiệt hại lớn khi không có khách và đến nay vẫn chưa hoàn toàn mở cửa trở lại. Những “con số biết nói” nếu trên cho thấy du lịch Việt đang “rơi thẳng đứng” từ đỉnh cao và tiếp tục “rơi” trong năm 2021. Nguyên phó viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương, ông Võ Trí Thành đặt câu hỏi với các đại biểu “Các anh, chị đau đáu, trăn trở nhất với điều gì trước vận mệnh của ngành du lịch?” Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, ông Hà Văn Siêu cho rằng cần phải tập trung vào ba yếu tố “An toàn, mở, đồng bộ.” An toàn cho người dân, tạo niềm tin cho khách “xê dịch” trở lại. Không có gì tốt cho doanh nghiệp du lịch lúc này bằng việc mở cho doanh nghiệp hoạt động. Muốn vậy cần sự tham gia đồng bộ của ngành y tế và các ngành liên quan với du lịch. Đơn cử như hàng không phải được bay thường lệ, cửa khẩu phải mở. Ngành ngoại giao và hàng không cần liên minh với ngành du lịch. Theo ông Siêu, không nên “cách ly” mà theo dõi sức khỏe của khách và xây dựng các phương án xử lý phù hợp. Đoàn khách quốc tế đầu tiên trở lại Phú Quốc. Ảnh CTV/Vietnam+ “Du lịch chỉ phục hồi khi mang thị trường cho doanh nghiệp, mang khách đến cho điểm đến. Muốn mở phải đồng bộ. Giữa các địa phương phải mở liên thông, không thể cát cứ, nơi làm thế này, nơi làm thế kia. Giữa các bộ, ngành như y tế, giao thông, ngoại giao, công an và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải quy định thông suốt, nhất quán,” ông Siêu nhấn mạnh. Trước câu hỏi của ông Võ Chí Thành, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam, bà Nguyễn Thị Cúc khẳng định thuế chính là nguồn lực để phát triển. Bà Cúc nêu ví dụ về thuế đất, Chính phủ đã có Quyết định 27 giảm tiền thuế đất trong năm 2021. “Các doanh nghiệp đang kiến nghị tiếp tục giảm đến năm 2023 và chúng tôi rất đồng thuận. Bên cạnh đó, diện tích xây dựng dành cho du lịch hiện chỉ có 25% nhưng tiền thuê đất, kể cả đất để trống lại như nhau nên chúng tôi cũng đồng tình việc cần phân định rõ đất dành cho xây dựng, đất lưu không,” bà Cúc nói. Trong khi đó, liên quan đến thuế giá trị gia tăng, bà Cúc phân tích khó khăn như vậy nhưng doanh nghiệp chỉ được giảm 2 tháng thì không phù hợp, đề nghị giảm đến hết năm 2023. Bởi thực tế, việc giảm thuế sẽ góp phần lớn vào hỗ trợ giảm giá bán, giá thành sản phẩ... Bên cạnh đó, cần hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách quốc tế đến Việt Nam dễ dàng nhất tại điểm mua hàng đã được cơ quan chức năng cho phép. Từ đó, kích thích tiêu dùng của khách du lịch ở Việt Nam. “Hiện chúng ta đã giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng chúng tôi đề xuất đưa du lịch vào danh mục ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp để tạo cú hích cho ngành du lịch đồng thời miễn luôn thuế của phí phục vụ cho ngành du lịch. Các loại phí khác cũng nên xem xét lại cho doanh nghiệp du lịch phát triển,” bà Cúc đề xuất. Đảm bảo phòng dịch cho khách quốc tế trở lại Việt Nam. Ảnh CTV/Vietnam+ Giải pháp nào trong bối cảnh mới? Theo Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Du lịch, ông Hà Văn Siêu, cần tập trung cơ cấu lại theo xu hướng mới, doanh nghiệp tái đầu tư, chính quyền hỗ trợ cơ cấu lại. Điểm đến phải “sạch,” phải thiên nhiên, phải “khỏe” để đảm bảo an toàn, sức khỏe cho người dân; sản phẩm đa dạng, trải nghiệm sâu, không đe dọa bởi sự đại trà, đông đúc. Bên cạnh đó, cần khai thác yếu tố văn hóa trong du lịch, đầu tư cho văn hóa để kích thích du lịch. Ngoài ra, khai thác kinh tế đêm, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn. Đặc biệt, để du lịch Việt Nam vượt “đỉnh đáy” khó khăn, từng bước phục hồi và tiếp tục phát triển trong bối cảnh mới, Thứ trưởng Đoàn Văn Việt đề xuất một số giải pháp. Trong đó, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo tập trung thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển du lịch trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội năm 2022- 2023, tạo đà cho nền kinh tế xanh phục hồi và đóng góp ngày càng hiệu quả cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Theo Thứ trưởng, cần tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, lao động ngành du lịch vượt khó, giảm bớt sự tan rã hệ thống đã được củng cố từ nhiều năm nay; chỉ đạo ban hành các cơ chế, chính sách mới, tạo thuận lợi cho ngành du lịch tiếp tục phát triển hạ tầng du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho khách quốc tế đến Việt Nam visa, xét duyệt nhân sự nhập cảnh tại chỗ, tăng thời gian miễn thị thực...; cho phép thành lập văn phòng đại diện du lịch ở nước ngoài. Đồng tính với ý kiến của ông Hà Văn Siêu, ông Đoàn Văn Việt khẳng định cần đẩy mạnh thu hút đầu tư vào phát triển các sản phẩm du lịch ban đêm, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng chăm sóc sức khỏe, du lịch theo hướng tăng trưởng xanh, du lịch trải nghiệm cộng đồng hướng tới phát triển bền vững...; Vinpearl Safari Phú Quốc. Ảnh CTV/Vietnam+ Ngoài ra, trong bối cảnh mới, cần đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển công nghệ liên quan đến du lịch nhằm tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vận hành, quản lý, tăng cường sáng tạo các sản phẩm du lịch độc đáo, đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn mới; thúc đẩy xu hướng du lịch hạn chế tiếp xúc thông qua tăng cường ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo trong phục vụ du lịch; liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ trong sáng tạo và đưa ra các giải pháp công nghệ phục vụ du lịch an toàn; xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch trong giai đoạn bình thường mới… Thứ trưởng cho rằng thời điểm này, khi tình hình dịch bệnh ở Việt Nam đã và đang dần được kiểm soát nhưng vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước đã sẵn sàng các phương án tái khởi động, phục hồi du lịch nội địa, hướng tới chính thức mở cửa hoàn toàn cho khách quốc tế dự kiến vào giữa năm 2022. “Kịch bản lạc quan về một tương lai sống chung với COVID-19 hoàn toàn có thể xảy ra và khi ấy, nhu cầu du lịch của con người chắc chắn sẽ tăng mạnh. Chính vì thế, du lịch Việt Nam sẽ nhanh chóng chớp lấy thời cơ, tận dụng mọi cơ hội để phục hồi trong bối cảnh mới, thích ứng an toàn, trở thành điểm đến uy tín và có vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế,” Thứ trưởng Đoàn Văn Việt khẳng định. Clip du lịch Việt Nam phục hồi và phát triển
phát triển ngành du lịch cho phép